Bạn đang xem bài viết Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Đoạn Trích Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt Của Lưu Quang Vũ được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Fply.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thị
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt siêu hay
Dàn ý phân tích bài Hồn Trương ba, da hàng thịt
Phân tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt ngắn gọn
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhất
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt (2 Mẫu)
Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt (3 Mẫu)
Dàn ý phân tích bài Hồn Trương ba, da hàng thịtI. Mở bài
Giới thiệu về Lưu Quang Vũ, tác phẩm Hồn Trương Ba da hàng thịt: Lưu Quang Vũ là một hiện tượng của sân khấu kịch trường những năm tám mươi của thế kỉ XX, là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam. Một trong những tác phẩm xuất sắc của ông là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt.
II. Thân bài
1. Cuộc đối thoại giữa hồn và xác
a. Hồn Trương Ba:
– Cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn.
– Xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài: âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém.
– Thái độ: từ chối quả quyết, mạnh mẽ sang ấp úng, bịt tai lại, tuyệt vọng.
b. Xác anh hàng thịt:
– Cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt.
– Thái độ: từ giễu cợt sang quả quyết, mạnh mẽ, lấn át và cuối cùng thắng thế.
2. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và mọi người trong gia đình
a. Hồn Trương Ba: cho rằng mình vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch và thẳng thắn
b. Những người thân trong gia đình:
– Vợ Trương Ba: đau đớn trước sự thay đổi của Trương Ba: “ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”.
– Cháu gái: không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!… chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”.
– Con dâu: cảm thông, chia sẻ và yêu thương với Trương Ba hơn trước nhưng vẫn không nhận ra Trương Ba của trước đây nữa.
– Kết quả: Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông.
3. Cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và Đế Thích; quyết định của Trương Ba
a. Trương Ba đã tự nhận ra: Con người sống cần có sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn, cần được sống là chính mình và cần phải sống có ý nghĩa.
b. Quan điểm khác biệt giữa Trương Ba và Đế Thích:
– Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”.
– Trương Ba:
Không được bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”.
“Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”.
– Hành động mang tính bước ngoặt của Trương Ba: Trả lại xác cho anh hàng thịt còn Trương Ba sẽ chết.
– Phép thử của Đế Thích: Trương Ba sẽ nhập vào xác cu Tị.
– Kết quả: Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị sống còn mình thì chết.
4. Nghệ thuật
Xây dựng tình huống xung đột kịch độc đáo, ngôn ngữ đối thoại đậm chất triết lí, độc thoại nội tâm giúp bộc lộ tính cách nhân vật…
III. Kết bài
Khẳng định giá trị của Hồn Trương Ba da hàng thịt, cảm nhận chung về tác phẩm: Qua đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Phân tích Hồn Trương Ba, da hàng thịt ngắn gọnLưu Quang Vũ là một tài năng đa dạng nhưng kịch là phần đóng góp đặc sắc nhất. ông được coi là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu, một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. “Hồn Trương Ba da hàng thịt” là một trong những vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ. Từ cốt truyện dân gian ông xây dựng lên một vở kịch hiện đại chứa đựng nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa tư tưởng và triết lí nhân sinh sâu sắc.
Vở kịch viết năm 1981 nhưng đến năm 1984 mới ra mắt công chúng, được công diễn nhiều lần trên sân khấu trong và ngoài nước. Văn bản trích trong SGK thuộc cảnh VII và đoạn kết của vở kịch diễn tả sự đau khổ, dằn vặt và quyết định cuối cùng thật cao thượng của hồn Trương Ba.
Xung đột giữa hồn và xác là xung đột trung tâm của vở kịch. Đến cảnh VII, xung đột lên tới đỉnh điểm cần phải giải quyết. Sau mấy tháng sống nhờ trong xác hàng thịt một cách trái tự nhiên, hồn Trương Ba trở nên xa lạ với người thân và tự chán chính mình: “Không!Không!Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi!”. Tình huống kịch bắt đầu từ chi tiết này.
Trong khi hồn rất muốn thoát ra khỏi thân xác kềnh càng , thô lỗ của anh hàng thịt thì xác lại cứ muốn tồn tại mãi tình trạng này. Và cuộc đối thoại giữa hồn và xác diễn ra: Xác chê hồn là cao khiết nhưng vô dụng. Xác tự hào với sức mạnh đui mù của mình, tự hào đã dụ dỗ, sai khiến được hồn vào những dục vọng của mình. Lí lẽ của xác thật đê tiện nhưng cũng rất thực tế khiến hồn không có cơ sở biện bác.
Dường như xác đã thắng.Trong cuộc đối thoại với xác, hồn ngày càng đuối lí, càng ra vẻ quát tháo, nạt nộ càng chứng tỏ sự lúng túng bất lực. Trong xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba cứ bị tha hóa dần. giờ đây dù không muốn , hồn Trương Ba cũng đã trở nên thô lỗ, vụng về, phũ phàng , lạnh lùng,tàn bạo chứ không còn hiền hậu, nhẹ nhàng như Trương Ba- người làm vườn ngày xưa. Dù có trốn chạy , hồn Trương Ba không thể phủ nhận sự thay đổi đó. Sự chống đối của hồn ngày càng yếu dần.
Tuy mắng xác ti tiện nhưng hồn đành kêu trời vì phải đầu hàng tuyệt vọng. Đoạn đối thoại khẳng định ý nghĩa của sự thống nhất linh hồn và thể xác, giữa bên trong và bên ngoài. Đây là một vấn đề có tính chất khái quát cao, bao trùm nhiều mặt của đời sống xã hội. Hồn Trương Ba rơi vào bi kịch bị tha hóa, Qua tình cảnh này tác giả cảnh báo: Khi con người sống chung với dung tục sẽ bị dung tục lấn át, ngự trị và tàn phá những gì tốt đẹp cao quý của con người.
Tất cả mọi người trong gia đình dù đã cố chịu đựng để thích nghi với hoàn cảnh mới nhưng ngày càng không thể chấp nhận sự thật quái gở trong nhà mình. “Cái quý giá nhất của con người là cuộc sống nhưng không phải bất cứ cách sống, kiểu sống nào. Sống mà đánh mất bản thân, sống giả dối với mọi người, với chính mình, sống như Hồn Trương Ba đang sống thì thà chết còn hơn”.
Và hồn quyết định gọi mời tiên Đế Thích Xuống trần để thực hiện mong muốn của mình. Sau cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba với tiên Đế Thích. Trương Ba trả lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch và hóa thân vào các sự vật thân thương, tồn tại vĩnh viễn bên cạnh những người thân yêu của mình,. Cuộc sống lại tuần hoàn theo quy luật muôn đời.
Thông qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc thông điệp: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình , sống trọn vẹn những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn giá trị hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính mình, chống lại sự dung tục để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao quý.
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt hay nhấtMột triết gia người Đức đã từng nói: “Anh phải trở về cái gì của chính anh”. Câu nói ấy là tiếng nói phải được sống là chính mình để trở thành một con người hoàn thiện. Tiếng nói ấy cũng gợi chúng ta nghĩ tới vở kịch “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, thông qua nhân vật Hồn Trương Ba cũng bật lên tiếng gọi, lời khẩn cầu tha thiết được sống là chính mình “Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Chỉ với câu nói ấy nhưng cũng toát lên một nỗi niềm, nỗi bi kịch đau đớn cùng khát vọng chính đáng của chính nhân vật Hồn Trương Ba.
Trước tiên, xét về thể loại văn học, bi kịch có thể được hiểu là một thể loại kịch trong đó chứa đựng những mâu thuẫn, xung đột căng thẳng, gay gắt giữa cái thiện và cái ác, cái tốt và cái xấu, giữa cái cao cả và cái thấp hèn do vậy mà nhân vật bi kịch thường xuất phát điểm là những con người hiền lành, lương thiện do các yếu tố chủ quan hay khách quan bị đẩy vào bi kịch, khiến mình trở nên khác đi không còn giống như ban đầu song họ vẫn ý thức được điều đó nên bị rơi vào trạng thái đau khổ, bế tắc, trăn trở tìm lối thoát cho mình nhưng kết thúc thường là cái chết của nhân vật.
Soi chiếu cách hiểu trên vào nhân vật Hồn Trương Ba, ta nhận thấy nhân vật ấy là một nhân vật bi kịch. Đó là nỗi bi kịch tinh thần đau đớn của nhân vật. Bi kịch ấy xuất phát từ nỗi niềm muốn sửa sai của Đế Thích-một quan nhà trời và là bạn chơi cờ của ông Trương Ba đã nhập hồn Trương Ba vào xác anh hàng thịt. Từ đây mâu thuẫn bắt đầu nảy sinh, một con người mà được kết hợp bởi hai thực thể hoàn toàn đối lập, trái ngược nhau. Một Trương Ba yêu thiên nhiên, yêu gia đình, hòa nhã với mọi người, có tài đánh cờ giỏi lại kết hợp với xác anh hàng thịt là một tên đồ tể giết lợn, thô lỗ, cộc cằn, ham rượu, ham đàn bà. Giữa hai thực thể đối lập nhau đã dần dần khiến Hồn Trương Ba tha hóa, biến chất. Hồn người này kết hợp với xác người kia là việc đi ngược lại với quy luật tự nhiên vốn có, một sự áp đặt tùy tiện, máy móc. Cuối cùng Hồn Trương Ba biến chất một cách đau đớn, thảm hại, xót xa. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt: “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nan rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Chính Hồn Trương Ba đã phải bộc lộ rằng: “ Không thể sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Lời nói của Hồn Trương Ba biểu hiện nỗi day dứt, giày vò khi con người ngày trước bị biến mất hoàn toàn, quyết liệt bày tỏ với một thái độ dứt khoát “ Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải của tôi này lắm rồi, chán lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng thô lỗ này ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn rời mi ngay tức khắc ”. Không dừng lại ở đó, Hồn Trương Ba còn bộc lộ sự ghê tởm, chán chường của mình trước thân xác của anh hàng thịt “ Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng ” , ta sẽ “ tách ra khỏi cái xác này dù chỉ là một lát ”. Qua những suy nghĩ và lời nói của nhân vật Hồn Trương Ba ta có thể thấy rõ Lưu Quang Vũ đã đi sâu vào đời sống nội tâm nhân vật, thấu hiểu và cảm thông với nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba.
Song bi kịch của Hồn Trương Ba không chỉ dừng lại ở đó, ông lại lâm vào bi kịch thứ hai có phần đau đớn hơn bi kịch trước. Đó là khi ông bị gia đình nghi ngờ, xem thường và xa lánh. Tất cả mọi người thân trong gia đình từ người vợ, người con trai cả, đứa cháu gái và cả người con dâu ai ai cũng xa lạ, nghi ngờ và xem thường ông vì họ không tìm thấy ở ông một ông Trương Ba làm vườn của ngày trước hiền lành, đôn hậu. Khi Hồn Trương Ba gần vợ anh hàng thịt khiến ông “ tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực” biểu thị sự ham muốn trỗi dậy không còn “ sự hiền lành, vui vẻ, tốt lành” như xưa, đến nỗi cả vợ ông khi nhìn thấy chồng mình trước tình cảnh như thế, vừa thương vừa giận vừa ghen và muốn xa lánh ông ngay lập tức. Bà vợ đã tâm sự thẳng thắn với ông: “ Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa” và bà quyết định “ Có lẽ tôi phải đi… đi cấy thuê, làm mướn, ở đâu cũng được…, đi biệt… Để ông được thảnh thơi… với cô vợ hàng thịt… Còn hơn là thế này…”. Những suy nghĩ này của vợ Trương Ba xuất phát từ nỗi đau trong tâm hồn người vợ, khi biết chồng mình đâu còn là con người của trước đây. Rồi người con trai cả, trước kia đều vâng lời lắng nghe ý kiến của cha nhưng nay anh lại “ quyết định, dứt khoát sẽ bán khu vườn để có tiền mở thêm vốn liếng cửa hàng thịt” dù Hồn Trương Ba không chấp nhận. Và hình ảnh cái Gái vốn rất yêu thương, kính mến ông nội nay cũng không thừa nhận ông đồng thời lên án sự thô bạo, tàn nhẫn, giẫm nát cây cối trong vườn, phá hỏng cái diều của cu Tị và phẫn nộ hét lên: “ Ông xấu lắm, ác lắm ! Cút đi ! Lão đồ tể cút đi !” rồi lại nói tiếp: “ Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông”. Ngay cả người con dâu cảm thông, hiểu rõ nỗi đau khổ của bố chồng nhưng sâu trong thâm tâm vẫn nghi ngờ người bố chồng hiện nay. Người con dâu đã tâm sự với ông: “ Thầy bảo con: Cái bên ngoài là không đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Lời tự bạch của người con dâu rất đỗi chân thật, cảm thông nỗi khổ của bố chồng khi đánh mất những gì tốt đẹp của ngày xưa rồi cô lại tiếp tục nói: “Thầy ơi! Làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con ngày xưa”. Hàng loạt những suy nghĩ từ người thân trong gia đình đã chứng tỏ ai ai cũng xa lánh, nghi ngờ, xem thường Trương Ba hiện tại.Như vậy, giữa hai thực thể là người làm vườn biểu tượng cho cái đẹp và thân xác tên đồ tể biểu tượng cho cái xấu, cái ác đã làm cho Trương Ba không còn nguyên vẹn “hồn nào xác ấy” như xưa được nữa.
Chính vì lâm vào hai bi kịch như trên, Hồn Trương Ba đã mời Đế Thích về để tỏ bày khát vọng chính đáng của mình: “Không thể sống bên trong một đằng bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Hồn Trương Ba tha thiết xin trả lại xác anh hàng thịt và cho mình được chết vì ông nghĩ rằng: “ Tôi đã chết rồi, hãy để tôi chết hẳn”. Nhưng Đế Thích vẫn muốn để Trương Ba được sống để tiếp tục có người đánh cờ cùng, có người khen mình là tiên cờ nên đã đề nghị Hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị ( con chị Lụa ) vừa mới chết. Nhưng cách giải quyết này của Đế Thích cũng vẫn là cách đi ngược lại với quy luật của tạo hóa, đâu khác chi với hoàn cảnh thực tại của mình. Và Hồn Trương Ba đã yêu cầu Đế Thích cho anh hàng thịt và cu Tị được sống, được trở về với gia đình và để Trương Ba chết. Hồn Trương Ba nói: “ Sống nhờ vào đồ đạc, của cải của người khác đã là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tôi sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!”. Lời nói ấy càng cho thấy rõ sự tắc trách của các quan nhà trời, càng sửa lại càng sai, càng làm cho con người rơi vào bế tắc, đau khổ, đánh mất chính mình. Suy nghĩ của Hồn Trương Ba, dù không còn trên cõi đời này nhưng hình ảnh một ông Trương Ba hiền hậu, vui vẻ sẽ mãi sống trong lòng mọi người với tình yêu thương và lòng kính trọng. Đó chính là một khát vọng sống chính đáng. Vở kịch khép lại, kết thúc bằng cái chết của nhân vật Trương Ba nhưng lại lấp lánh tính nhân văn, triết lý. Đó là một hướng giải quyết phù hợp với lẽ tự nhiên, với quy luật đạo đức với con người.
Làm nên sự thành công của vở kịch, ta không thể không nhắc tới nghệ thuật xây dựng tình huống đầy kịch tính, lời thoại nhân vật sống động, chân thật, đi sâu vào nội tâm nhân vật để khắc họa lên nhân vật Hồn Trương Ba với những bi kịch nhưng đậm chất nhân văn. Lưu Quang Vũ đã thổi vào nền kịch nói Việt Nam sau 1975 một làn gió mới. Và chắc chắn sức sống của nó sẽ còn mãi trong lòng bạn đọc đến hôm nay và cả mai sau.
Phân tích Hồn Trương Ba da hàng thịt (2 Mẫu) Bài làm mẫu 1Lưu Quang Vũ là một nhà viết kịch nổi tiếng. Một trong những vở kịch tiêu biểu của ông là “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Tác phẩm gửi gắm nhiều bài học, tư tưởng nhân văn sâu sắc.
Trương Ba giỏi đánh cờ bị chết oan do Nam Tào làm việc tắc trách. Vì muốn sửa sai nên Nam Tào và Đế Thích đã cho hồn Trương Ba sống lại, nhập vào xác anh hàng thịt vừa chết. Khi trú nhờ trong xác anh hàng thịt, Trương Ba gặp phải rất nhiều phiền toái như lí trưởng sách nhiễu, chị hàng thịt đòi chồng, ngay đến gia đình của ông cũng cảm thấy xa lạ… Bản thân Trương Ba cũng đau khổ vì phải sống trái với tự nhiên. Đặc biệt là khi xác anh hàng thịt đã làm cho Trương Ba nhiễm một vài thói xấu. Đoạn trích được học kể về cuộc đối thoại giữa Trương Ba với các nhân vật.
Đầu tiên là cuộc đối thoại giữa Trương Ba và xác hàng thịt. Bản thân Trương Ba cho rằng mình vẫn có một đời sống nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Ông xem xác anh hàng thịt chỉ là cái vỏ bên ngoài với sự âm u, đui mù, không có tư tưởng, không có cảm xúc, nếu có thì chỉ là những thứ thấp kém. Nhưng xác hàng thịt lại cho rằng hồn Trương Ba không thể tách khỏi xác anh hàng thịt, mọi việc làm, hành động của hồn Trương Ba đều chịu sự chi phối của xác anh hàng thịt. Đây chính là cuộc đấu tranh giữa phần con và phần người, giữa đạo đức và tội lỗi, giữa khát vọng và dục vọng. Với cuộc đối thoại này, nhà văn đã gửi gắm thông điệp sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Tiếp đến, hồn Trương Ba đã có cuộc trò chuyện với những người thân trong gia đình. Trước tình cảnh của Trương Ba, mỗi người có một thái độ khác nhau. Vợ Trương Ba đau đớn trước sự thay đổi của Trương Ba: “Ông đâu còn là ông”, một mực muốn rời khỏi gia đình “đi cày thuê làm mướn ở đâu cũng được… đi biệt”. Còn cái Gái không chịu nhận ông, cho rằng ông nội của mình đã chết mà thay vào đó là một Trương Ba vô cùng vụng về, thô lỗ “Từ nay ông không được động vào cây cối trong vườn của ông tôi nữa!… chân ông to bè như cái xẻng, giẫm nát lên cả cây sâm quý mới ươm”. Chị con dâu tỏ ra cảm thông, chia sẻ và yêu thương với Trương Ba hơn trước nhưng vẫn không nhận ra Trương Ba của trước đây nữa. Ở một vị trí khác nhau, một thái độ khác nhau nhưng họ đều có điểm chung là thấy Trương Ba đã thay đổi, không còn nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn. Để rồi, Trương Ba vỡ lẽ, nhận ra sự thay đổi của bản thân và sự lấn át của phần xác đối với phần hồn trong ông. Ông quyết định sẽ trả lại xác cho anh hàng thịt.
Chính hoàn cảnh đó đã dẫn đến cuộc đối thoại với Đế Thích. Trương Ba đã chỉ rõ cái sai của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết”. Ông bày tỏ mong muốn: “Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”; “Không thể sống với bất cứ giá nào được. Có những cái giá quá đắt, không thể trả được tâm hồn tôi lại trở lại thanh thản, trong sáng như xưa”. Mọi chuyện trở nên éo le hơn khi nghe cu Tị chết, Đế Thích đề nghị cho hồn Trương Ba nhập vào cu Tị, Trương Ba đã từ chối. Ông đã nhận ra được một loại những rắc rối đằng sau việc này: phải giải thích cho chị Lụa và người thân trong gia đình (đặc biệt là cái Gái – cháu gái của mình nhưng cũng là bạn thân của cu Tị, có khi phải sang nhà chị Lụa ở, tạo cơ hội cho bọn lý trưởng sách nhiễu, thu lợi… Cuối cùng, Trương Ba đã từ chối và yêu cầu Đế Thích để cho cu Tị sống còn mình thì chết. Đây là một cái kết hợp lí, có hậu nếu xét theo ý nghĩa đó là kết quả của cuộc đấu tranh giữa khao khát được sống, nhưng không chấp nhận cuộc sống giả dối, không được là chính mình.
Qua đoạn trích Hồn Trương Ba, da hàng thịt, tác giả muốn gửi gắm thông điệp được sống là người quý giá thật nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn cố và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hòa giữa thể xác và tâm hồn.
Bài làm mẫu 2Lưu Quang Vũ là một người đa tài, ông hoạt động trong hầu hết lĩnh vực nghệ thuật. Ông vừa có thể viết truyện, làm thơ, am hiểu về hội họa… song có lẽ dấu ấn của ông được khẳng định rõ nhất qua kịch. Kịch của Lưu Quang Vũ giàu tính triết lí mang đậm ý nghĩa nhân văn. Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” cũng là một tác phẩm như thế. Đăc biệt đoạn trích cảnh VII của vở kịch thể hiện sáng rõ giá trị nhân văn của toàn vở kịch khi diễn ra xung đột gay gắt giữa hồn và xác và được đẩy lên tới đỉnh điểm.
Trước hết, giá trị nhân văn của một tác phẩm có thể được hiểu là vẻ đẹp, phần sáng trong một con người song phần đẹp đẽ của một con người chỉ thực sự được bộc lộ khi được đặt vào các mâu thuẫn, sự đấu tranh trong hoàn cảnh cụ thể. Ở đó nhân vật luôn cố gắng thoát ra khỏi những bóng tối, những cái xấu xa để khẳng định bản thân mình, vươn tới những giá trị đẹp nhất trong xã hội. Nói như thế, phần nổi bật của giá trị nhân văn là giá trị về tinh thần của con người như: trí tuệ, phẩm giá, nhân cách, tâm hồn… Giá trị nhân văn được xem như là thước đo giá trị văn học của mọi thời đại.
Hiểu như thế, ta nhận thấy giá trị nhân văn của cảnh VII của vở kịch được khắc họa rõ nét qua nhân vật Trương Ba. Trương Ba là hiện thân của một con người tốt bụng, sống thanh tao và đặc biệt có biệt tài là chơi cờ rất giỏi. Ông là người thường chơi cờ với Đế Thích và hai người trở thành bạn của nhau. Tuy nhiên, do thiếu tinh thần trách nhiệm, tắc trách trong công việc của mình, các quan nhà trời đã gạch tên Trương Ba ở hạ giới khiến ông Trương Ba bị chết oan. Để sửa sai, Đế Thích cũng là một quan nhà trời đã cho hồn Trương Ba sống lại bằng cách nhập vào xác anh hàng thịt mới chết được một ngày. Từ đây, xung đột mâu thuẫn ở trong nhân vật hồn Trương Ba nảy sinh một cách gay gắt. Nhưng chính mâu thuẫn, sự đấu tranh ấy lại làm ngời sáng giá trị nhân văn của tác phẩm.
Hình ảnh một ông Trương Ba ngồi một mình ôm đầu hồi lâu đã cho chúng ta sự chán nản, tuyệt vọng trong tâm hồn. Hồn Trương Ba cảm thấy nỗi đau đớn của chính mình khi con người thật của mình đã bị đánh mất. Về hành động, Trương Ba không còn thường hay đánh cờ nữa, trí tuệ không còn được minh mẫn, sáng suốt. Là một người làm vườn, cây cối vốn là một thứ mà trước đây ông hết sức yêu quý và nâng niu, nay ông còn phá hoại cả chúng trên thân xác xù xì, thô kệch và nặng nề của anh hàng thịt : “ông làm gãy tiệt cái chồi non… chân ông giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm” trong vườn, còn “làm hỏng mất cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”, “lãm gãy cả nam rách giấy” thậm chí “Trương Ba tát người con trai toét máu mồm, máu mũi”. Về cách sống, dường như tính cách Trương Ba thay đổi hẳn, không còn hiền hậu, vui vẻ, tốt bụng với những người trong gia đình và cả với mọi người xung quanh. Ông trở nên cộc cằn, thô lỗ, lại còn bị thân xác lấn át khi ham muốn vợ anh hàng thịt, đứng cạnh vợ anh hàng thịt, ông cảm thấy “tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực”. Như vậy từ hành động tới cách sống của Hồn Trương Ba hoàn toàn biến mất, tha hóa chính là nỗi đau đớn của Hồn Trương Ba. Bởi vì ông hiểu rằng cái tôi của mình trước đây, của một người làm vườn vốn là biểu tượng của cái đẹp song giờ đây, con người ấy lại hòa vào xác anh hàng thịt lại là biểu tượng của sự thô lỗ, cộc cằn, hung bạo, ham dục vọng thì thử hỏi làm sao mà không tha hóa, biến chất sao được. Giá trị nhân văn của tác phẩm lại nằm ở chỗ nhà viết kịch không để Hồn Trương Ba trượt dài trên sự tha hóa, biến chất của thân xác vốn không thuộc về mình, không phải là của mình. Một Trương Ba bị gia đình nghi ngờ, cảm thấy xa lạ, xa lánh nên nhân vật nhận thức rõ điều ấy và không muốn sống một cuộc sống lay lắt, sống dở, chết dở. Hồn Trương Ba quyết tìm gặp Đế Thích để nói lên khát vọng sống đích thực của mình là đòi lại quyền làm người, quyền sống thích đáng của con người. Trong cuộc nói chuyện, Hồn Trương Ba đã lên tiếng phê phán thói ích kỉ của Đế Thích: “Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” và bày tỏ ước vọng của mình là muốn được chết vì chỉ có cái chết mới trả lại con người đích thực của Hồn Trương Ba, mới có thể tìm lại một Trương Ba tốt đẹp trong mắt mọi người xung quanh như xưa. Đối với Trương Ba, cái chết là một sự giải thoát thể hiện tinh thần phản kháng, đấu tranh đòi lại quyền làm người, đòi lại một người yêu thiên nhiên, yêu gia đình, yêu mọi người. Với khát vọng “ Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thì đó lại là một cái chết đẹp. Tiếng nói ấy là một tiếng nói hết sức chính đáng, sống đúng với tư cách của một con người là một phẩm chất đẹp. Hồn Trương Ba quyết liệt tìm đến cái chết : “Tôi không nhập vào hình thù của ai nữa. Tôi đã chết rồi hãy để tôi chết hẳn”. Và ông còn quả quyết khi đưa ra lời đe dọa với Đế Thích “ Nếu ông không giúp, tôi sẽ nhảy xuống sông, hay đâm một nhát dao vào cổ, lúc đó thì hồn tôi chẳng còn, xác anh hàng thịt cũng mất…”. Những lời nói phản kháng quyết liệt của Hồn Trương Ba khi đối diện với Đế Thích càng thấy rõ sức sống tiềm tàng trong con người Hồn Trương Ba thật mãnh liệt để tìm lại chính mình, đòi lại quyền làm người thích đáng của mình khi đã bị các quan nhà trời tước đoạt là phẩm chất tốt đẹp ở nhân vật này.
Một phẩm chất tốt đẹp nửa của Hồn Trương Ba cũng được bộc lộ ở ông đó là tình yêu thương con người. Khi Đế Thích vẫn muốn níu kéo sự sống của Hồn Trương Ba bằng cách đưa ra lời gợi ý, lời khẩn cầu sống trên thân xác của cu Tị hàng xóm trong cơn thập tử nhất sinh, Hồn Trương Ba đã không đồng ý và cùng lúc ấy ông đã xin trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị. Dù Hồn Trương Ba nhận thấy thân xác của anh hàng thịt đã từng cười cợt, ngạo mạn, xem thường, miệt thị Hồn Trương Ba. Nếu không có hắn, Hồn Trương Ba có lẽ sẽ không bị rơi vào tình trạng đau đớn, day dứt, giày vò. Nhưng nguyện vọng của Hồn Trương Ba vẫn xin cho anh hàng thịt được sống, được trở về với gia đình, vợ con đã thể hiện một tấm lòng bao dung, nhân hậu, yêu thương con người của Hồn Trương Ba. Hồn Trương Ba đã lấy ân báo oán, xóa bỏ thù hận trước kia bởi ông hiểu rõ nỗi đau của người vợ khi mất chồng và nỗi đau của người mẹ khi mất con từ đó yêu cầu tha thiết Đế Thích trả lại sự sống cho anh hàng thịt và cu Tị là một phẩm chất đáng quý.
Để khắc họa lên bản chất tốt đẹp trong sâu thẳm con người của Hồn Trương Ba khiến cho vở kịch mang đậm giá trị nhân văn, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được tình huống đầy kịch tính, lời thoại của nhân vật chân thật, sinh động, lôi cuốn, đi sâu vào nội tâm nhân vật với sự đấu tranh mâu thuẫn phức tạp, giằng xé. Kịch bản đã nêu lên được thông điệp: Phải tôn trọng quyền làm người, quyền sống của con người và không có sự áp đặt tùy tiện làm cho con người tha hóa, đánh mất chính mình cũng là ý nghĩa nhân văn của vở kịch.
Phân tích bài Hồn Trương Ba, da hàng thịt (3 Mẫu) Bài làm mẫu 1Hồn Trương Ba,da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.
Câu chuyện bắt đầu từ khi cuộc sống của Trương Ba bắt đầu tái sinh dưới thân xác anh hàng thịt. Với truyện cổ tích, đó là một kết thúc có hậu và Trương Ba tiếp tục hạnh phúc với hình hài và thân xác mới. Tuy vậy, dưới con mắt của Lưu Quang Vũ,hiện thực cuộc đời được tái hiện theo đúng cách mà nó tồn tại. Vì thế mới nảy sinh một bi kịch mới, đó là bi kịch của một tâm hồn thanh cao,trong sáng lại phải sống chật chội trong thân xác của một anh chàng thịt phàm phu tục tử,thô lỗ,bản năng. Tuy vậy, sau ba tháng trú ngụ trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.
Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau khổ hơn là hồn Trương Ba không thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.
Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu cảm thán ngắn, dồn dập: “Không! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là cái vỏ bên ngoài, không có ý nghĩa gì hết,không có tư tưởng, không có cảm xúc…”
Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê, dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát vọng và bản năng con người.
Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khoát.
Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thông điệp đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hòa. Không thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vô nghĩa.
Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc sống trở lại quy luật tuần hoàn của muôn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.
Từ tích truyện cổ dân gian, Lưu Quang Vũ đã sáng tạo nên một vở kịch có sức lôi cuốn mạnh mẽ, gửi tới người đọc một thông điệp sâu sắc về triết lí sống. Tính đa tầng, đa nghĩa, đã thanh trong vở kịch này là một sáng tạo mới của Lưu Quang Vũ. Chính sự đa hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt!
Bài làm mẫu 2Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam. Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán giả. Phần lớn các vở kịch của ông đều được các đoàn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng tạo. Ông đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và quan niệm sống của mình đến với khán giả.
Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài hòa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng không thể hòa hợp. Đặc biệt là hồn của một người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm tục, đầy bản năng, thô lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con người. Đây là mâu thuẫn nội tại.
Bi kịch của Trương Ba là ông phải chịu chết oan, khi được sống lại phải sống trong cái xác của anh hàng thịt. Ông nhận ra bản thân dần bị tha hóa, tâm hồn trong sạch ngay thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hôn phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong ước của mình, không phải là chính mình.
Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà còn là bi kịch gia đình. Quay lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch không được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ông đi. Đứa con dâu là người cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét không nhận và đuổi ông đi, dù ông có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.
Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cô đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chôn ông xuống đất. Ông đã tự ý thức được tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con người rất vị tha.
Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình không phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba. Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng của việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.
Anh hàng thịt cũng không kém phần khôn ngoan, lí lẽ cũng có phần đúng đắn: “Những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác của họ nỗi khổ sở nhếch nhác…”. Vì thế mâu thuẫn cũng khó có thể giải quyết nhanh chóng. Qua lí lẽ của anh hàng thịt tác giả cũng muốn nói lên một điều: Con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng không thể tách hồn khỏi vật chất đời thường, cũng như những nhu cầu chính đáng rất con người. Mặt khác tác giả cũng muốn nói lên những người vượt lên hoàn cảnh đã gặp không ít trở lực có lúc làm cho họ nản lòng. Điều đó thể hiện qua những câu thoại có vẻ đuối lí của Trương Ba. Rồi hồn Trương Ba phải thỏa hiệp và nhập vào xác anh hàng thịt, đuối lí bởi những lí lẽ vừa khó chịu vừa chứa đựng một phần chân lí. Màn đối thoại vừa có tính chất hài kịch lại vừa có tính bi kịch. Màn đối thoại vừa toát lên giọng điệu nghiêm trang lại vừa có ý mỉa mai hài hước. Đó là một sự kết hợp giữa hài kịch và bi kịch của người nghệ sĩ tài ba. Bi kịch này có sự mâu thuẫn giữa khát vọng và khả năng.
Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác động từ bên ngoài: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rất đặc sắc. Ngôn ngữ của Đế Thích là ngôn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ không ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng không được sống theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hoàng cũng phải ép mình cho xứng danh Ngọc Hoàng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc sống như thế chứ con người thì không” và khăng khăng đòi chết, không chịu nhập vào cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến thắng được mình và còn chủ động phê phán khuyên bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi thường, một ông tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ông thật là kì lạ”. Hóa ra các lực lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thật thiết tha. Cái chết của Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.
Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Không nên kì thị những đòi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.
Bài làm mẫu 3Nhắc đến Lưu Quang Vũ là nhắc đến một nhà soạn kịch tài hoa, một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu cho văn học hiện đại Việt Nam. Tài năng bao trùm trên các lĩnh vực văn chương nghệ thuật, và trong mỗi lĩnh vực, Lưu Quang Vũ lại để lại những dấu ấn đặc biệt, để lại những thành tựu trải dài suốt hàng thế kỉ.
Trong đó, Lưu Quang Vũ đặc biệt được ghi nhận ở mảng viết kịch và “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” được xem là một trong những vở kịch thành công nhất của Vũ. Chính vì thế mà nhà phê bình Ngô Thảo đã từng nói: “Bóng rợp tài năng của Lưu Quang Vũ đã trùm lên che mát cả một vùng sân khấu rộng lớn theo chiều dài đất nước trong một thập niên”.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch viết về cuộc xung đột căng thẳng giữa Hồn và Xác mà Lưu Quang Vũ đã mượn cốt truyện dân gian để xây dựng nên. Trương Ba là một người hiền lành, chăm chỉ, có học thức lại giỏi đánh cờ nhưng lại chết một cách vô lí. Cái chết của Trương Ba chính do bởi sự vô tâm, tắc trách nơi Nam Tào. Sau đó, để sửa sai, Nam Tào và Đế Thích cho hồn Trương Ba sống lại là nhập vào xác hàng thịt vừa mới chết.
Advertisement
Nhưng không ngờ sự sửa chữa lại dẫn tới một sai lầm trầm trọng hơn, Trương Ba rơi vào hẳn đời bi kịch khi phải sống trong xác hàng thịt – một con người hoàn toàn đối lập với mình. Sau cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết, trả lại thân xác vay mượn cho Hàng Thịt bởi vì ông muốn “tôi muốn được là tôi của toàn vẹn” bởi “sống thế này, còn khổ hơn là cái chết”.
Và từ đó, vĩnh viễn “không còn cái vật quái gở mang tên “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” nữa”. Qua đó, vở kịch đã mang đến một thông điệp to lớn: được sống làm người là quý giá thật, nhưng càng quý giá hơn khi được sống là chính mình, theo đuổi những giá trị mình mong muốn, sống một cách tự nhiên với sự hài hòa giữa tâm hồn và thể xác.
Với cốt truyện như trên, trích kịch xoay cuộc đối thoại nảy lửa giữa hồn và xác. Nguyên nhân xuất phát từ việc Trương Ba phải chịu sự lấn át của thể xác thô lỗ, chiều theo những nhu cầu tầm thường, dung tục mà khiến tâm hồn thanh cao bị nhiễm độc, tha hóa. Hàng thịt bây giờ là cái bình để chứa đựng linh hồn Trương Ba, hàng thịt đòi hỏi những nhu cầu ăn uống rượu thịt, tiết canh, cổ hũ, khấu đuôi…và cả đời sống vợ chồng mà Trương Ba cho là thô phàm, thấp kém.
Trong khi Trương Ba càng cố gắng chối bỏ, đề cao sự nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn thì hàng thịt lại càng khinh khi, phỉ nhổ: “Nực cười thật! Khi ông phải tồn tại nhờ tôi, chiều theo những đòi hỏi của tôi, mà còn nhận là nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn!”. Qua đó, Lưu Quang Vũ đã gửi đến cho người đọc những triết lí nhân sinh quý giá qua bi kịch của cuộc đời Trương Ba.
Bi kịch thứ nhất của Trương Ba là bi kịch sống, sống gửi, không được là chính mình. Nghịch cảnh trớ trêu, sự hoán đổi bất ngờ đã xáo trộn hiện thực. Trích kịch mở đầu với những lời kêu gào thống thiết: “Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi!” Trương Ba đang độc thoại trước cảnh bế tắc. u uẩn không lối thoát của hiện tại. Thân xác kềnh càng, bản tính cục cằn thô lỗ của hàng thịt đang dần dần lấn át đi tâm hồn nhân hậu, thanh cao của chính ông.
Đau khổ, quẫn bách, dày vò không ngờ lại trở thành cuộc đời của Trương Ba. Sự hoán đổi quá chênh lệch, linh hồn thanh cao gửi vào xác thân phàm tục đã khiến cho ông muốn bứt mình ra khỏi hiện tại dù chỉ là trong khoảnh khắc: “Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỏ, để nó được tách khỏi cái xác này, dù chỉ là một lát!”.
Trong chán nản tuyệt vọng, sự khát khao tách bạch trở nên tha thiết hơn bao giờ hết, tiếng kêu gào thống thiết kia chính là lời cầu cứu của một linh hồn khát khao được nguyên vẹn là mình. Và cũng trong giây phút đó, Hồn và Xác đã được tách ra, cuộc hội thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt được bắt đầu.
Ta thấy trong cuộc đối thoại đặc biệt đó, Hồn Trương Ba đã bị nhạo báng, thách thức và đôi lần đuối lí trước lời nói hùng hồn của Xác hàng thịt. Lời nói của Hồn Trương Ba vô cùng ít ỏi và tất cả đều xoay quanh việc bảo vệ sự trong sạch của chính mình, đề cao tâm hồn cao thượng, lối sống nhân hậu, thanh cao và lên án xác thân hàng thịt đã làm ông dơ bẩn, tha hóa. Xác trước những buộc tội đó không hề đuối lí mà ngược lại, còn ung dung, ngạo mạn thách thức linh hồn.
Trước lời khinh miệt thân xác vô hồn, đui mù “mày chỉ là xác thịt âm u đui mù…”, hàng thịt đã nghiễm nhiên đáp lại: “Chính vì âm u đui mù mà tôi có sức mạnh ghê gớm, lắm khi át cả linh hồn cao khiết của ông đấy!” Ta thấy, mỗi lời hàng thịt nói ra đều buộc Trương Ba phải thừa nhận có sự tồn tại của thể xác, hơn nữa, ông đang bị thể xác mà mình khinh khi, xem thường kia trói buộc.
Hồn im lặng và đau đớn thừa nhận sự thắng thế của Xác, nhiều lần phải bất lực đáp lại: “Im đi”, “Ta… ta… đã bảo mày im đi!”, “Ta không muốn nghe mày nữa!”,… Trong suốt cuộc đối thoại, Xác hàng thịt lần lượt kể lại những hành động, những việc làm, những thói quen nhuốm màu phàm tục như “Khi ông đứng cạnh vợ tôi, tay chân run rẩy, hơi thở nóng rực, cổ nghẹn lại…”, “ông có nhớ hôm ông tát thằng con ông tóe máu mồm máu mũi không?” để cuối cùng khẳng định một điều chắc nịch với hồn Trương Ba: “Nhưng tôi là cái hoàn cảnh mà ông buộc phải quy phục!”.
Bên cạnh đó, Xác hàng thịt còn lần lượt kể lể về những lí lẽ vô cùng thuyết phục như “những vị lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người ta sống vì phần hồn, để rồi bỏ bê thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”, kể về những “trò chơi tâm hồn” mà mình đã nhân nhượng với Trương Ba. Cuộc đối thoại đến hồi kết, hồn Trương Ba cam cảnh thua cuộc và phải quay về với xác hàng thịt.
Qua tấn bi kịch sống nhờ sống gửi này, chúng ta thấy hình tượng Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt chính là ẩn dụ cho hai lối sống đối lập, một bên đại diện cho sự thanh cao, nhân hậu, khát vọng sống cao khiết, một bên là sự tầm thường, dung tục. Đó đồng thời cũng là sự đấu tranh, đối thoại gay gắt trong một con người. Khi con người sống trong thể xác tầm thường dung tục thì ắt sẽ bị nó ngự trị. Ngược lại, nếu chỉ một mực chăm chút linh hồn mà xem thường thể xác thì thể xác cũng nhếch nhác, tầm thường.
Bi kịch thứ hai của Trương Ba là bi kịch bị người thân cự tuyệt. Có thể nói, đây mới là tấn bi kịch đau đớn nhất, sâu sắc nhất của Trương Ba. Ông tuyệt vọng, khổ đau không chỉ bởi sự thay đổi ngỡ ngàng đến không thể nhận ra của chính mình mà còn bởi sự xa lánh, rời bỏ của người thân. Khoảng cách gia đình, những vết rạn nứt đã mơ hồ xuất hiện.
Từng nhớ, trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam, từng có một Chí Phèo bị người thân bỏ rơi từ lúc nhỏ, bị Thị Nở ngoe nguẩy cự tuyệt trên con đường hoàn lương để rồi đi vào một hướng giải thoát mang tính chất đánh đổi: đó là mạng sống, là cái chết. Hoàn cảnh Trương Ba cũng tương tự khi vợ, khi cháu và khi cả con dâu lần lượt rời xa ông. Làm sao Trương Ba có thể thanh minh cho hoàn cảnh hiện tại của chính mình? Làm sao ông có thể giải quyết sự mâu thuẫn giữa hồn và xác đang ngự trị?
Tình thân bị đặt vào giữa bi kịch nghiệt ngã, càng đẩy Trương Ba rơi sâu hơn vào bế tắc của chính mình. Người vợ mà ông hết mực yêu thương cũng không hiểu được ông: “Ông bây giờ còn biết đến ai nữa!”, đòi bỏ ông ra đi “để ông được thảnh thơi… với cô vợ người hàng thịt”, “Ông đâu còn là ông, đâu còn là ông Trương Ba làm vườn ngày xưa”… Mỗi lời nói ra của người vợ như một vết cắt, cắt sâu vào nỗi đau của Trương Ba. Ngay cả đứa cháu ông – Gái cũng đã lên tiếng khước từ, phủ nhận “Tôi không phải là cháu của ông!”
Chính lời nói của đứa trẻ ngây thơ, vô tội đã cáo buộc đanh thép “bàn tay giết lợn của ông làm gãy tiệt cái chồi non, chân ông to bè như cái xẻng, giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, “ông làm gãy cả nan, rách cả giấy, hỏng cả cái diều đẹp mà cu Tị rất quý”… Nó xua đuổi ông như đuổi một tên hung thần, một tên ác quỷ, nó gọi ông bằng những danh xưng xấu xa, bằng lão đồ tể.
Cuối cùng, đến cả chị con dâu – người mà ông tin tưởng nhất cũng đã tỏ ra nghi ngờ: “mỗi ngày con thấy thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa”. Chị vẫn tự nhủ mình phải kính trọng, phải yêu thương, phải cảm thông cho người bố chồng bất hạnh nhưng hiện thực giờ đây là cửa nhà tan hoang, là nỗi đau khổ của từng người từng người một “nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”
Bây giờ đây, Trương Ba hoàn toàn tuyệt vọng, ông không còn chút niềm tin nào để bấu víu, không còn thiết tha gì một mạng sống đã làm khổ chính mình, hành hạ người thân. Bi kịch nhường ấy là quá đủ. Nỗi đau này phải tiếp tục cho đến bao giờ, Trương Ba “mặt lặng ngắt như tảng đá”, từ chối bỏ, nghi ngờ, chịu ép vế nay đã phải hoàn toàn thừa nhận sự thắng thế của thân xác. Bi kịch bị người thân cự tuyệt đã giúp ông có những suy nghĩ dứt khoát, những hành động quyết liệt nhất để tìm ra con đường tự cứu lấy mình. Cuối cùng, ông đã xin với Đế Thích cái chết bởi “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được”.
Sở dĩ Trương Ba từ chối cơ hội cuối cùng mà Đế Thích ban cho, đó là nhập hồn vào xác Cu Tị vừa mới chết là vì ông không muốn một lần nào nữa xảy ra bi kịch oái oăm tương tự. Làm có thể sống một cách bình thường, làm sao có thể dung hòa sự khi bên ngoài và bên trong hoàn toàn trái ngược?
Tâm hồn của Trương Ba là một tâm hồn hoàn toàn khác so với thân xác đang trú ngụ kia. Sẽ chẳng có một lối thoát, một cứu cánh nào vẹn toàn cả “trẻ con phải ra trẻ con, người lớn phải ra người lớn”. Đế Thích quan niệm cuộc sống khác ông, sống chỉ đơn giản là không chết, chẳng cần phải vẹn toàn, phải ý nghĩa, phải như mong muốn gì cả “tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong”, “dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông”.
Cái chết của Trương Ba chính là cuộc hồi sinh ngắn ngủi trong lòng những người thân, khi người chồng, người ông, người cha kính yêu, hiền lành khi xưa đã quay trở về. Từ bỏ cuộc sống giả tạo, mệt mỏi, Hồn Trương Ba quay về với nếp nhà hiền hậu ban đầu, với cuộc sống của chính mình, với bậc cửa ở nhà, với ánh lửa, với cầu ao, với cơi trầu, con ao…
Trương Ba đã nói một câu hết sức bình thường giản dị nhưng lại vô cùng thấm thía cảm động: “Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu…”
Vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” có nhiều đặc điểm nghệ thuật nổi trội và đã gặt hái thành công rực rỡ ở những buổi công diễn sân khấu kịch. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã lồng ghép vào triết lí nhân sinh quý giá về cuộc sống, cách sống của mỗi con người. Đặc biệt, nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật chân thực, xúc động và gay cấn qua các màn độc thoại, đối thoại đã tạo nên chiều sâu tư tưởng cho tác phẩm.
Tóm lại, thông qua trích kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, Lưu Quang Vũ đã khắc họa một cuộc đối thoại sinh động giữa Hồn và Xác để từ đó đi đến kết luận về một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, một cuộc sống thể xác và tâm hồn để tìm sự sự dung hòa hợp lí. Và trong bất kì hoàn cảnh nào, con người phải biết đấu tranh vươn lên những giá trị chân thiện mỹ, biết tự hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện chính là thông điệp nhân sinh quý giá mà vở kịch mang lại.
Văn Mẫu Lớp 10: Phân Tích Nhân Vật Trương Phi Trong Đoạn Trích Hồi Trống Cổ Thành 2 Dàn Ý &Amp; 8 Bài Văn Hay Lớp 10
TOP 8 mẫu Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý ôn tập, trau dồi ngôn ngữ, biết cách lập luận trong bài văn phân tích nhân vật được hay hơn.
Dàn ý phân tích nhân vật Trương Phi
Sơ đồ tư duy phân tích Trương Phi
Hình tượng nhân vật Trương Phi (4 Mẫu)
Phân tích nhân vật Trương Phi (4 Mẫu)
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả La Quán Trung (tên tác giả, con người, sự nghiệp văn học) và đoạn trích “Hồi trống cổ thành” (vị trí, nội dung đoạn trích).
Giới thiệu nhân vật Trương Phi: Là nhân vật chính của đoạn trích
II. Thân bài
1. Khi nghe tin Quan Công đến.
Thái độ: chẳng nói chẳng rằng
Hành động: Mặc áo giáp dẫn nghìn quân lên ải Bắc
→ Hành động vội vàng, nóng vội.
2. Khi gặp Quan Công
– Thái độ: mắt trợn tròn, râu hùm vểnh ngược.
– Hành động: hò hét như sấm, múa sà mâu tới đâm Quan Công.
– Cách xưng hô: Mày – tao, nó, thằng, không coi Quan Công là người bề trên.
– Nguyên nhân: vì nghi ngờ Quan Công phản bội
→ Là một người nóng nảy nhưng đó là biểu hiện của sự cương trực, kiên quyết.
– Buộc tội Quan Công: Sử dụng những lập luận sắc bén, hợp tình hợp lí
Bỏ anh → Bất nghĩa
Hàng Tào → Bất trung
Được phong hầu tước → Tham lam
Đến đây đánh lừa; đâu có tốt bụng; đến để bắt ta → Bất nhân
→ Là người ngay thẳng, yêu ghét rõ ràng, trắng đen rạch ròi.
3. Khi Sái Dương xuất hiện.
– Suy nghĩ: Nghĩ Quan Công đem quân đến bắt mình
– Hành động: Múa bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công.
– Yêu cầu: Đánh ba hồi trống để Quan Công chém chết tướng giặc thể hiện lòng thành, thẳng tay đánh trống để thách thức Quan Công.
→ Thái độ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát của con người ngay thẳng
→ Việc Sái Dương xuất hiện đẩy mâu thuẫn giữa hai nhân vật Trương Phi – Quan Công lên đến đỉnh điểm
→ Sái Dương là nút thắt để Quan Công giải mối hàm oan, Quan Công nhờ đó mà giải được nỗi oan cho mình, Trương Phi cũng thể hiện được khí chất khảng khái của người anh hùng.
4. Khi Quan Công giết được Sái Dương
– Thái độ, hành động: rỏ nước mắt, thụp lạy Quan Công
→ Thái độ bao dung, phục thiện đúng lúc.
→ Trương Phi là con người giàu tình cảm, nóng nảy, thô lỗ nhưng khôn ngoan và biết trọng lẽ phải.
5. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
Khắc họa nhân vật qua lời nói và hành động
Xây dựng những diễn biến tình tiết độc đáo, kịch tính để nhân vật bộc lộ tính cách.
Xây dựng nhân vật theo hướng điển hình hóa, Trương Phi đại diện cho những con người nóng nảy nhưng trọng nghĩa, khẳng khái.
Ngôn ngữ sinh động, cách kể chuyện hấp dẫn.
III. Kết bài
Khái quát nội dung và nghệ thuật xây dựng nhân vật Trương Phi
Bàn luận về tính cách Trương Phi trong đời sống thực tế hiện nay.
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những tiểu thuyết thời trung cổ nổi tiếng nhất. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, nhưng mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách và diện mạo riêng. Và trong số những nhân vật đó, chúng ta không thể không nhớ đến Trương Phi thẳng thắn, cương trực và trung nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nét nhất trong đoạn trích “Trống cổ”.
Tác phẩm ra đời vào đầu thời nhà Minh, kể về một đất nước bị chia ba (cát cứ chia) gần trăm năm của Trung Quốc cổ đại vào khoảng thế kỷ II – III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quân, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm vạch trần tình hình chính trị của Trung Quốc mà đặc điểm nổi bật là nạn cát cứ tranh giành, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, dân chúng chết đói. Thể hiện nguyện vọng của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất.
Đoạn trích kể về Quan Công cùng chị dâu đi tìm em là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là kẻ phản bội mình đầu hàng Tào Tháo khiến Trương Phi vô cùng tức giận. Quan Công phải trải qua một bài kiểm tra để chứng minh mình vô tội.
Trương Phi vốn mang tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ nói láo nữa, không mập mờ hay sống thoáng. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất cụ thể, rõ ràng qua câu nói với hai người chị dâu, cũng chính là nói với Quang Công: “Thần trung thà chết chứ không chịu nhục, lẽ nào đại nhân. nam? thờ hai chủ.” Theo quan niệm phong kiến, trung quân là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ một chủ đó, còn ai thờ hai chủ là phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi cân nhắc, phán đoán tướng mạo của Quang Công. Quan Công bất ngờ trở về sau khi phản bội vườn đào, bỏ mình đầu hàng Tào Tháo, kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy, khi Quan Công ở dưới trướng Tào Tháo, ông còn được phong tứ hầu, Quan Công quy phục Tào Tháo. Vì vậy, việc Quan Công trở về là để đánh lừa Trương Phi, nhằm chiếm được Cổ Thành. Ngoài ra, hành động Trương Phi dẫn ngựa khiến Trương Phi càng thêm tin tưởng vào khả năng phán đoán của mình. Trước những bằng chứng, suy diễn quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần tố cáo Quan Công. Tố Quan Công bội bạc bội bạc: “Ngươi bội ta, còn mặt mũi nào gặp ta?” Chưa dừng lại ở đó, Trương Phi còn tố cáo Quan Công bất trung: “Ngươi bỏ ta, Tào Tháo được phong làm Tứ hầu, nay lại đến lừa ta, ta quyết sống chết với ngươi”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là bất nhân: “Ngươi cũng láo, hắn không có lòng tốt, hắn đến đây bắt ta.” Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một người đầy tớ trung thành.
Từ những suy luận, những gì tôi chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng rất quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Cán báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “không nói một lời, lập tức mặc giáp, cưỡi ngựa vác giáo, dẫn một nghìn quân, lập tức đi đường tắt đến cửa bắc. ”, Trương Phi đã sẵn sàng. trận đánh. Vừa nhìn thấy Quan Công, “mắt trợn tròn, râu hùm vểnh, gầm lên như sấm, múa giáo rắn, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công hỏi nguyên do “Trương Phi ngẩng đầu lên kêu ngươi là huynh”, buộc tội Quan Công mưu phản. Dù được hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh cho Quan Công, Trương Phi vẫn gạt đi và vẫn giữ nguyên lập luận, phán đoán của mình. Nhất là khi quân cầm cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng tức giận quát lớn: “Vẫn là lần cuối”. Con ngựa quân mang cờ Tào là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và lập tức Trương Phi cầm bát thương rắn xông tới đâm Trương Phi.
Trước yêu cầu của Quan Công để chứng minh lòng trung thành của mình bằng cách chặt đầu tướng Tào, Trương Phi chấp nhận, nhưng đưa ra một điều kiện để thách thức Trương Phi, đó là chặt đầu tướng Tào trong ba hồi trống. Đây là một thử thách rất lớn đối với Quan Công, vừa để chứng tỏ sự trong sạch, vừa để thể hiện tài năng của mình. Vậy tại sao chỉ là ba hồi trống mà không phải năm hồi trống. Nếu 5 hồi trống thì quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy của Trương Phi, còn 5 hồi thì hạ thấp tài năng của Quan Công. Vì vậy, ba hành vi là hợp lý nhất. Đồng thời, khi đưa ra điều kiện, ba hồi trống Trương Phi cũng ngầm bày tỏ và gửi gắm niềm hy vọng đến Quan Công rằng, Quan Công vẫn trước sau như một, không bội bạc với mình.
Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đánh bại tướng của Tào Tháo, lòng trung nghĩa của Quan đã được chứng thực. Đó cũng là thời điểm quá trình hòa giải bắt đầu. Nếu như ban đầu Trương Phi nóng nảy, nóng nảy thì đến đây anh đã thận trọng hơn rất nhiều, khác hẳn với tính cách thường ngày của Trương Phi. Trương Phi làm vậy vì rất sợ anh em kết nghĩa nên cần có thời gian để khẳng định lòng trung thành của Quan Công. Trên thực tế, trước khi Quan Công chém Sái Dương, Trương Phi cũng từng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu ta”, điều này cho thấy Sái Dương không cùng phe với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hoàn toàn. Quan Công bắt một người lính cầm cờ của quân Tào hỏi chuyện, Phi mới tin là có thật. Tiếp đó là cuộc đối thoại giữa hai chị dâu về quá trình gian khổ, khó khăn, nguy hiểm mà Quan Công phải trải qua, Trương Phi mới hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã thể hiện rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi đối với Quan Công.
Các nhân vật được xây dựng chủ yếu thông qua đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ nét suy nghĩ, tính cách của nhân vật – Trương Phi là người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng rất trọng tình cảm. Cốt truyện như một vở kịch đầy kịch tính, lôi cuốn người đọc. Các chi tiết của truyện đặc sắc, đặc biệt là chi tiết của câu trống, mang ý nghĩa thách thức và minh oan.
Với cốt truyện hấp dẫn, với những tình tiết đặc sắc, đoạn trích đã thể hiện tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi – vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời, đoạn trích cũng ca ngợi tình nghĩa cao cả, sâu sắc – một biểu hiện rõ rệt của lòng trung thành.
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là 1 trong những bộ tiểu thuyết nổi danh nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm đối tượng, nhưng mỗi đối tượng luôn được tái tạo với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những đối tượng ấy, ta chẳng thể ko nhớ tới Trương Phi, bộc trực, ngay thẳng, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của đối tượng được trình bày rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.
Tác phẩm có mặt trên thị trường vào đầu thời Minh, kể về 1 nước chia 3 (cát cứ phân tranh) trong gần trăm 5 của Trung Quốc thời cổ thời gian thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên 3 thần thế chính: thần thế của Tào Tháo, thân thế của Vương Quyền, thần thế của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa nhưng mà đường nét nổi trội là cát cứ phân tranh, cá bự nuốt cá nhỏ, chiến tranh liên hồi, dân chúng đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của dân chúng: hòa bình, bất biến, hợp nhất.
Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều ấy làm Trương Phi hết sức bức xúc. Quan Công phải trải qua thách thức để minh chứng sự trong lành của mình.
Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, ngay thẳng, ko bao giờ có nữa lời nói điêu, ko to mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được trình bày rất rõ ràng, rành mạch qua câu nói với 2 chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ ko chịu nhục, có nhẽ đâu nam nhi lại thờ 2 chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ 1 chủ, chết sống chỉ có 1 chủ ấy nhưng mà thôi, còn người nào thờ 2 chủ, đấy là kẻ phản bội. Từ lập luận ấy, Trương Phi suy xét, suy đoán về sự hiện ra của Quang Công. Quan Công bất chợt trở về sau lúc đã vô ơn vườn đào, bỏ lại anh nhưng mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là đối phương bự của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công lúc ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Do vậy sự trở về của Quan Công là để gạt gẫm Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành. Thêm vào ấy hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng khiến cho Trương Phi tin cậy vào thẩm định của mình hơn. Trước những bằng chứng, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã 3 lần cáo buộc Quan Công. Buộc tội Quan Công bội ơn, vô ơn: “Mày đã vô ơn, còn mặt mày nào tới gặp tao nữa”. Không dừng lại ở ấy Trương Phi cáo buộc Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại tới lừa tao, tao quyết hầu chết sống với mày”. Và chung cuộc cáo buộc Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta ấy”. Những lời cáo buộc này đều xuất hành từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, ngay thẳng, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của 1 trung thần.
Việc Quan Công chém được Triệu Dương không hề là việc khó nhưng mà lại rất có ý nghĩa bởi ấy là cách độc nhất vô nhị để Quan Công giải oan. Sự giải oan cũng ko mấy gian khổ nhưng mà nó trình bày thái độ dứt khoát và trắng đen rõ ràng của Trương Phi. Tác giả đã hình thành 1 cảnh huống rất rực rỡ để vừa ca tụng tình cảm anh em gắn bó tình nghĩa của Lưu, Quan, Trương vừa biểu hiện rõ tính cách thẳng ngay của Trương Phi và đức độ của Quan Công.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, điển hình cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm mơ ước của nhân dân dân chúng về 1 ông vua hiền, 1 triều đình chính nghĩa và nhân đạo.
Với lối kể chuyện dân gian, dễ dàng hóa cốt truyện trong sự nhiều chủng loại của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt tới chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn tức là tiểu thuyết cổ đại điển hình ở cả 2 bình diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm ko chỉ bởi trị giá bự của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức nhưng mà còn do vậy giới đối tượng được xây dựng rất thành công. Những đối tượng điển hình của Tam quốc diễn nghĩa đã trở thành rất thân thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí đối tượng như tiểu thuyết đương đại nhưng mà xây dựng tính cách đối tượng bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa nói chung, La Quán Trung vẫn xây dựng được 1 toàn cầu đối tượng nhiều chủng loại có bản lĩnh bao quát và tái tạo sinh động 1 thời gian lịch sử dài gần 1 trăm 5 với rất nhiều bất định. Qua đây tác giả đã gửi gắm những nghĩ suy và trình bày cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với 1 đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng mà 2 đối tượng Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhơn nghĩa, sự thật thà và chân tình của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài chiến trận nhưng mà Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục tình nghĩa, giáo dục lối sống, lối xử sự theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích Hồi trống Cổ thành trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa, không thể không nói tới tác giả La Quán Trung. Ông sinh vào cuối đời nhà Nguyên, mất vào đầu đời nhà Minh. Quán Trung có năng khiếu về văn chương. Ông rất giỏi trong cách dùng từ khúc, câu đối. Ông còn tài viết các loại nhạc kịch. Nhưng người đời nhớ đến ông chỉ trong vai trò tiểu thuyết gia.
Nếu ai đã đọc cuốn Tam quốc diễn nghĩa, đều sẽ biết đến nhân vật Trương Phi là một anh hùng có tính cách thẳng thắn, bộc trực. Nhận vật này không bao giờ có lối nói úp mở, mập mờ, hành xử dối trá. Bởi thế, khi phân tích nhân vật Trương Phi trong đoạn trích này, các bạn sẽ càng thấy rõ bức chân dung đó. Theo La Quán Trung, lập trường, quan điểm, của nhân vật Trương Phi vô cùng rạch ròi, rõ ràng. Điều này được thể hiện qua câu nói mà nhân vật đã nói với hai chị dâu và cũng là nhắc khéo tới Quan Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”.
Trong quan niệm của người thời xưa, trung thần là người chỉ tôn thờ một minh chủ. Họ sẽ sống chết, làm mọi việc để giúp chủ đó mà thôi. Những ai có ý đồ thờ hai chủ nghĩa kẻ ấy phản bội. Từ suy nghĩ, lập luận đó, Trương Phi phán đoán, suy xét về việc Quang Công xuất hiện. Sau thời gian vắng bóng, đột nhiên Quan Công. Đã thế, nghe đâu hắn đã hang Tào Tháo, kẻ thù không đội trời chung với Lưu Bị. Đáng tức hơn, hắn còn được Tào phong hầu, phong tước. Như vậy, chắc chắn, Quan Công đã quy phục, bài Tào Tháo làm chủ. Và bởi thế, sự xuất hiện của Quan Công là để lừa Trương Phi, với mưu đồ chiếm Cổ Thành. Trong cơn giận giữ, khi nghe tin Quan Công tới, Trương Phi đã dẫn thêm quân mã ra giao chiến với Quan Công thay vì nghênh đón: “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”.
Vốn là người nóng tính, nên trước những suy luận, chứng cớ quá rõ ràng, Trương Phi không nói với Quan Công lời nào mà hành động ngay: “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Sau đó, vì không thích nói vòng vo dài dòng, Trương Phi chỉ thẳng mặt Quan Công mà buộc tội, không chỉ một lần mà tới ba lần với ba tội danh. Đầu tiên, nhân vật Trương Phi buộc Quan Công tội vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Chẳng phải là anh em nữa, giờ đây Trương Phi xưng luôn “mày- tao”. Điều này thể hiện thái độ dứt khoát, cương quyết. Tiếp đến, Trương Phi khẳng định Quan Công tội bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng, Trương Phi luận tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Hết sảy những lời cáo buộc này đều xuất phát từ tính cách thẳng thắn, bộc trực của nhân vật. Đó là được xem là một trong những tính cách của trung thần, chỉ tin vào những gì mình thấy, mình chứng kiến.
Có thể nói, phân tích nhân vật Trương Phi tới đây, ta đã có thể hiểu phần nào con người nhân vật này. Trương Phi quả thực là một người ngay thẳng, nhưng khá nóng tính. Cái đầu ông nóng và trái tim nhân vật cũng nóng. Do đó, dù Quan Công đã được hai chị dâu cùng Tôn Càn thanh mình, nhưng Trương Phi vẫn một mực không nghe theo. Nhật vật gạt hết ý kiến và giữ nguyên lý lẽ, lập luận của mình. Nhất là khi đám quân mang cờ của Tào Tháo kéo đến, Trương Phi càng như bị thêm dầu vào lử. Trương Phi mắt sắc lẹm, bừng bừng lửa giận và quát: “bây giờ còn chối nữa không?”.
Tướng Tào xuất hiện tuy khiến cơn giận của Trương Phi thêm bùng nổ nhưng chính là nút mở, giúp Quan Công giải oan. Trương Phi đã thử thách lòng trung thành của Quan Công bằng việc chém tướng giặc chỉ trong ba hồi trống. Việc này xảy ra vừa thể hiện sự vẹn nguyên lời thề của Quan Công, vừa bộc lộ thái độ kiên quyết, dứt khoát, mạnh mẽ của Trương Phi. Đó cũng là một phần của khí chất khảng khái của người anh hùng thời loạn, không dài dòng văn tự, hãy chứng minh bằng hành động.
Phân tích nhân vật Trương Phi, ta có thể thấy, trước yêu cầu của Trương Phi, Quan Công đã nhận lời thử thách. Với tài nghệ của mình cũng như mong muốn minh chứng sự trong sạch, chỉ trong nháy mắt, tướng Tào đã bỏ mạng dưới tay Quan Công. Đến đây, nhiều độc giả tự hỏi, sao Trương Phi không ra yêu cầu năm hồi mà lại là ba hồi. Mỗi người khi cảm nhận tác phẩm sẽ có cách nghĩ khác nhau, nhưng có lẽ, ba hồi sẽ phù hơn với tính cách hơi vội vàng, nóng nảy của Trương Phi. Hơn nữa, nếu dài quá, lại dường như hạp thấp tài nghệ của Quan Công. Đặc biệt, qua đó, Trương Phi ngầm thể hiện gửi gắm hy vọng tới Quan Công. Trương Phi mong Quan Công sẽ vẫn như xưa, không hề phản bội lời thề nơi vườn đào năm xưa.
Không hổ danh là tướng dưới tướng Lưu Bị, Quan Công đã không làm Trương Phi buồn lòng, thất vọng. Chỉ trong 3 hồi trống, tướng Tào đã bị hạ gục. Điều đó đã giúp Quan Công và Trương Phi được hóa giải. Nếu ban đầu gặp Quan Công, Trương Phi nóng giận bao nhiêu thì giờ lại thận trọng bấy nhiêu. Điều này khác hẳn với tính cách thông thường của nhân vật. Sau khi xác nhận được lòng trung thành của Quan Công qua hành động giết tướng giặc, Trương Phi được nghe thêm chuyện từ hai người chị dâu. Nghe xong, Trương Phi vô cùng xúc động trước hành trình gian khổ, nguy hiểm mà Quan Công đã trải. Nhân vật đã “rỏ nước mắt”. Khi người đàn ông khóc là khi người ta bất lực trước chuyện gì đó, hối hận trước chuyện gì đó và cả thấy khâm phục trước chuyện gì đó. Ở đây, giọt nước mắt đó thể hiện cả ba điều ở Trương Phi. Nhân vật nghe chuyện của Quan Công, cảm thấy bất lực vì đã không giúp được Quan Công trên đường đi. Trương Phi hối hận vì đã nghi ngờ lòng trung của Quan Công và khâm phục tài năng, đức độ của Quan Công.
Qua nhân vật Trương Phi, độc giả có thể nhận ra, tác giả La Quan Trung rất ít miêu tả dáng vẻ, ngoại hình. Tác giả chủ yếu phác họa nhân vật qua đối thoại và hành động. Trương Phi là điển hình. Qua lời lẽ và hành động, độc giả thấy rõ được suy nghĩ và tính cách nhân vật. Đó là một người cực kỳ nóng tính và ngay thẳng nhưng cũng sống hết mình vì đạo nghĩa.
Người anh hùng trong thời loạn đề cao trung nghĩa: “Trung thần thà chịu chết không chịu nhục. Có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ?”. Trong suy nghĩ của Trương Phi thì Quan Công đã hàng Tào, “được phong hầu tử tước”, đã “bội nghĩa” đến Cổ Thành là để lập mưu bắt Phi! Nên phải đâm chết: “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. “Xin hai chị thong thả, để tôi giết thằng phụ nghĩa này đã…”. Trung thực, nóng nảy, quyết liệt. Nghe Tôn Cào vào báo tin hai chị và Quan Vũ đến, mời Trương Phi ra đón, Phi “chẳng nói chẳng rằng lập tức mặc áo giáp vác xà mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân đi tắt qua Cửa Bắc”. Hành động dữ dội, sôi sục “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Mạt sát Quan Công: “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”. Ai phân trần khuyên bảo cũng không nghe. Chỉ có một điều kiện “xong 3 hồi trống phải chém đầu tướng Tào” để làm tin. Đầu Sái Dương rụng, tên lính nói rõ mọi chuyện thì Phi mới tin: “rỏ nước mắt, thụp lạy Vân Trường”. Phục thiện và biết điều. Tóm lại, tác giả miêu tả Trương Phi rất sống động: cương trực, thẳng thắn, quyết liệt, trong sáng và trung nghĩa.
Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung là một trong những bộ tiểu thuyết nổi tiếng nhất thời trung đại. Tác phẩm có hàng trăm nhân vật, những mỗi nhân vật luôn được tái hiện với tính cách ngoại hình riêng. Và trong số những nhân vật đó, ta không thể không nhớ đến Trương Phi, bộc trực, thẳng thắn, trượng nghĩa. Vẻ đẹp của nhân vật được thể hiện rõ nhất trong đoạn trích Hồi trống cổ thành.
Tác phẩm ra đời vào đầu thời Minh, kể về một nước chia ba (cát cứ phân tranh) trong gần trăm năm của Trung Quốc thời cổ thời kì thế kỉ II – thế kỉ III. Và nổi lên ba thế lực chính: thế lực của Tào Tháo, thế lực của Vương Quyền, thế lực của Lưu Bị. Tác phẩm phơi bày cục diện chính trị Trung Hoa mà đường nét nổi bật là cát cứ phân tranh, cá lớn nuốt cá bé, chiến tranh liên miên, nhân dân đói khổ, điêu linh. Thể hiện mong muốn của nhân dân: hòa bình, ổn định, thống nhất.
Đoạn trích kể về việc Quan Công cùng chị dâu đi tìm anh là Lưu Bị. Trên đường đi gặp lại Trương Phi, Trương Phi cho rằng Quan Công là người phản bội bỏ anh, hàng Tào Tháo, điều đó làm Trương Phi vô cùng giận dữ. Quan Công phải trải qua thử thách để minh chứng sự trong sạch của mình.
Trương Phi vốn mang trong mình tính cách bộc trực, thẳng thắn, không bao giờ có nữa lời nói dối, không mập mờ, úp mở. Quan điểm, lập trường này của Trương Phi được thể hiện rất rõ ràng, rạch ròi qua câu nói với hai chị dâu cũng chính là để nói với Quang Công: “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Theo quan niệm phong kiến, người trung thần là người chỉ thờ một chủ, sống chết chỉ có một chủ đó mà thôi, còn ai thờ hai chủ, ấy là kẻ phản bội. Từ lập luận đó, Trương Phi suy xét, phán đoán về sự xuất hiện của Quang Công. Quan Công đột nhiên trở về sau khi đã bội nghĩa vườn đào, bỏ lại anh mà đầu hàng Tào Tháo, vốn là kẻ thù lớn của Lưu Bị. Không chỉ vậy Quan Công khi ở dưới trướng Tào Tháo còn được phong hầu tứ tước, Quan Công đã quy phục Tào Tháo. Bởi vậy sự trở về của Quan Công là để đánh lừa Trương Phi, hòng chiếm Cổ Thành. Thêm vào đó hành động Trương Phi dẫn theo quân mã càng làm cho Trương Phi tin tưởng vào nhận định của mình hơn. Trước những chứng cớ, suy luận quá rõ ràng, Trương Phi đã ba lần buộc tội Quan Công. Buộc tội Quan Công vong ân, bội nghĩa: “Mày đã bội nghĩa, còn mặt mũi nào đến gặp tao nữa”. Không dừng lại ở đó Trương Phi buộc tội Quan Công là kẻ bất trung: “Mày đã bỏ anh, hàng Tào Tháo, được phong hầu tứ tước nay lại đến lừa tao, tao quyết hầu sống chết với mày”. Và cuối cùng buộc tội Quan Công là kẻ bất nhân: “Mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó lại đây là để bắt ta đó”. Những lời buộc tội này đều xuất phát từ tính cách của Trương Phi, đây là sự bộc trực, thẳng thắn, chỉ tin những gì mình thấy, đây là tính cách cần có của một trung thần.
Từ những suy luận, những gì mình chứng kiến Trương Phi đã có phản ứng hết sức quyết liệt với Quan Công. Khi Tôn Càn báo tin Quan Công mời Trương Phi ra đón, Trương Phi “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa, dẫn một nghìn quân, lập tức đi tắt ra cửa bắc”, Trương Phi sẵn sàng giao chiến. Khi vừa nhìn thấy Quan Công “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu, chạy lại đâm Quan Công”. Quan Công cất lời hỏi lí do “Trương Phi hất hàm quát, xưng hô mày tao”, buộc tội Quan Công phản bội. Dù được hai chị dâu cùng Tồn Càn thanh minh cho Quan Công nhưng Trương Phi gạt đi tất cả vẫn luôn giữ vững những lập luận và suy xét của mình. Nhất là khi toán quân mang cờ Tào kéo đến, Trương Phi càng giận dữ hơn và quát: “bây giờ còn chối nữa thôi”. Quân mã mang cờ Tào kéo đến là minh chứng xác thực nhất cho sự phản bội của Quan Công và ngay lập tức Trương Phi lấy bát xà mâu, xông đến đâm Trương Phi.
Và Quan Công đã không để Trương Phi phải thất vọng. Trong ba hồi trống đã hạ gục tướng của Tào Tháo, lòng trung của Quan Công đã được chứng thực. Đó cũng là giờ phút bắt đầu quá trình hòa giải. Nếu lúc đầu Trương Phi giận dữ, nóng nảy bao nhiêu thì đến đây lại thận trọng bấy nhiêu, khác hẳn tính cách thông thường của Trương Phi. Trương Phi làm như vậy là bởi rất sợ tình nghĩa anh em bị nên cần phải có thời gian để chứng thực lòng trung của Quan Công. Thực ra, trước khi Quan Công chém đầu Sái Dương, Trương Phi cũng chứng kiến Quan Công nói chuyện với Sái Dương “giết cháu tao” đã cho thấy Sái Dương không cùng phía với Tào Tháo nhưng vẫn chưa tin hẳn. Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của quân Tào để hỏi chuyện đầu đuôi, khi ấy Phi mới tin anh là thực. Tiếp đó là cuộc trò chuyện của hai chị dâu kể về quá trình vất vả, khó khăn biết bao nguy hiểm mà Quan Công đã phải trải qua, và Trương Phi đã hiểu ra mọi chuyện. Giọt nước mắt của Trương Phi đã cho thấy rõ tấm lòng, tình cảm của Trương Phi với Quan Công.
Nhân vật được xây dựng chủ yếu qua lời đối thoại và hành động. Qua đó bộc lộ rõ suy nghĩ, tính cách nhân vật – Trương Phi một người bộc trực, nóng nảy nhưng cũng hết sức tình nghĩa. Cốt truyện như một màn kịch giàu kịch tính, gây sức hấp dẫn với người đọc. Chi tiết truyện đặc sắc, đặc biệt là chi tiết hồi trống có ý nghĩa thách thức và minh oan.
Bằng cốt truyện hấp dẫn, với những chi tiết đặc sắc đoạn trích đã cho thấy tính cách bộc trực, thẳng thắn của Trương Phi – vẻ đẹp tiêu biểu của nhân vật. Đồng thời qua đoạn trích còn ca ngợi tình nghĩa cao đẹp, sâu nặng – một biểu hiện riêng biệt của lòng trung nghĩa.
Văn học Minh – Thanh là giai đoạn phát triển cuối cùng của văn học cổ điển Trung Quốc. Đây là thời kì nền văn học Trung Quốc khá đa dạng, phong phú và đạt nhiều thành công về mặt nghệ thuật. Trong đó có sự lên ngôi đầy vẻ vang của tiểu thuyết. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc là một loại truyện dài, được kể thành chương hồi và theo trật tự trước sau của sự việc. Có thể kể đến những đỉnh cao tiêu biểu đã rất quen thuộc với chúng ta ngày nay như Tây du kí, Thuỷ hử truyện, Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng… Trong đó, Tam quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh một thời kì dài và đầy biến động của lịch sử Trung Quốc, đó là thời Tam quốc. La Quán Trung viết tác phẩm này dựa trên ba nguồn tư liệu chính là sử liệu (cuốn sử biên niên Tam quốc chí của Trần Thọ đời Tấn và cuốn Tam quốc chí của Bùi Tùng Chi người Nam Bắc triều) ; dã sử, truyền thuyết trong dân gian ; tập kịch, thoại bản đời Nguyên (cuốn Tam quốc chí bình thoại). Vì thế tác phẩm vừa là một thiên sử kí, vừa là một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật.
Nội dung của câu chuyện Hồi trống Cổ Thành được tóm tắt trong câu : “Chém Sái Dương anh em hòa giải ; Hồi Cổ Thành tôi chúa đoàn viên”. Đoạn trích này đã thể hiện khá rõ những đặc sắc nghệ thuật trần thuật và nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa. Những nét tính cách không thường nổi bật trong tác phẩm của hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã được thể hiện trong đoạn trích. Quan Công vốn rất tự phụ, ít khi nhún nhường ai, nhưng trong trường hợp đặc biệt này, trước cơn giận của Trương Phi, lại rất nhũn nhặn, mềm mỏng. Ở đây hiện lên một Quan Công oai hùng trong tư thế chém đầu tướng giặc nhưng cũng lại là một người anh chín chắn, đúng mực. Còn Trương Phi tính tình vốn xốc nổi, đơn giản nhưng mối nghi ngờ đã làm cho vị anh hùng này thận trọng hơn. Đó là những nét tính cách khác tạo nên sự đa chiều trong nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật của tác giả. Dù thế nào thì mỗi nhân vật của Tam quốc diễn nghĩa vẫn có một tính cách đặc trưng rất cá tính, không thể trộn lẫn vào đâu được. Đoạn trích này ca ngợi tài năng phi thường của Quan Công, lòng dạ thẳng ngay của Trương Phi và trên hết là lòng trung nghĩa sắt son của cả hai người.
Trương Phi nổi tiếng là người ngay thẳng, nóng nảy và trung thực. Nên mọi lí lẽ với Trương Phi đều không có sức thuyết phục. Người như Trương Phi không bao giờ chấp nhận và cũng khó có thể hiểu được những uẩn khúc trong việc Quan Công về ở với Tào Tháo. Vì thế khi nghe tin Quan Công đến Cổ Thành, Trương Phi đã phản ứng rất quyết liệt : “Phi nghe xong, chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp, vác mâu lên ngựa…”. Nhìn thấy Quan Công thì không thèm nói một lời, “Trương Phi mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”.
Trương Phi và Quan Công là những tướng tài của nhà Thục, tiêu biểu cho nhà Thục. Lưu Bị và nhà Thục là nơi tác giả gửi gắm ước mơ của quần chúng nhân dân về một ông vua hiền, một triều đình chính nghĩa và nhân đạo.
Với lối kể chuyện dân gian, đơn giản hóa tình tiết trong sự đa dạng của sự kiện, Tam quốc diễn nghĩa đã đạt đến chuẩn mực của nghệ thuật kể chuyện. Tam quốc diễn nghĩa là tiểu thuyết cổ điển tiêu biểu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Thành công của tác phẩm không chỉ bởi giá trị lớn của tác phẩm về quân sự, lịch sử và về đạo đức mà còn bởi thế giới nhân vật được xây dựng rất thành công. Những nhân vật tiêu biểu của Tam quốc diễn nghĩa đã trở nên rất quen thuộc đối với văn hoá và người đọc phương Đông. Không đi sâu khai thác tính cách bằng diễn biến tâm lí nhân vật như tiểu thuyết hiện đại mà xây dựng tính cách nhân vật bằng những hành động, cử chỉ có ý nghĩa khái quát, La Quán Trung vẫn xây dựng được một thế giới nhân vật đa dạng có khả năng bao quát và tái hiện sinh động một thời kì lịch sử dài gần một trăm năm với rất nhiều biến động. Qua đây tác giả đã gửi gắm những suy nghĩ và thể hiện cái nhìn của mình về xã hội Minh Thanh. Chỉ với một đoạn trích Hồi trống Cổ Thành nhưng hai nhân vật Quan Công và Trương Phi đã nổi lên vẻ đẹp sáng ngời về lòng nhân nghĩa, sự trung thực và chân thành của tình anh em, tôi chúa. Là tiểu thuyết khai thác đề tài trận mạc nhưng Tam quốc đã để lại rất nhiều những câu chuyện giáo dục nghĩa tình, giáo dục lối sống, lối ứng xử theo tiêu chuẩn Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín của người quân tử phương Đông.
Tam Quốc diễn nghĩa là tác phẩm phản ánh chân thực thời kì lịch sử đầy biến động của lịch sử Trung Quốc với tam quốc phân tranh quyết liệt. Đoạn trích “Hồi trống cổ thành” là một trong những đoạn trích đặc sắc nhất thể hiện cuộc đối đầu đầy căng thẳng của Trương Phi và Quan Công, những người huynh đệ từng kết nghĩa vườn đào, để khi hồi trống cổ thành vang lên mọi hiềm khích được hóa giải, người đọc lại một lần nữa cảm động về tình huynh đệ gắn bó, tấm lòng trước sau như một dù trải qua những thử thách khốc liệt nhất. Đoạn trích thành công xây dựng những nét tính cách đặc trưng của từng nhân vật, đặc biệt người võ tướng Trương Phi được khắc họa với tính cách nóng nảy, bộc trực cùng tấm lòng trung thành không gì có thể thay đổi.
Advertisement
Trương Phi là người võ tướng tài giỏi dưới trướng của Lưu Bị, khắc họa chân dung nhân vật này, tác giả La Quán Trung đã viết: “…tiếng vang như sấm, nhanh như ngựa, râu cọp hàm én, đầu beo mắt lồi”. Nổi tiếng với tính cách bộc trực, thà chết chứ không chịu khuất phục, luồn cúi dưới trướng của kẻ thù, có thể nói Trương Phi là nhân vật đại diện cho chữ “trung”. Tuy nhiên, người võ tướng này tính tình lại nóng nảy, bộc trực, ghét sự phản bội, đây cũng là lí do của việc nghi ngờ Quan Vân Trường thất tín và cũng là nguyên nhân chính dẫn đến cuộc đối đầu căng thẳng ở cổ thành.
Nói về tính cách nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, dân gian cũng đã có câu “Nóng như Trương Phi, đa nghi như tào tháo”, thế mới thấy hình ảnh của một Trương Phi dung mạnh nhưng nóng nảy đã in đậm trong tiềm thức của mọi người.
Là người trung thành, đề cao chữ Trung nên Trương Phi không thể chấp nhận được hành động phản bội, Trương Phi điển hình cho người anh hùng thời loạn đề cao trung nghĩa với lí tưởng “Trung thần thà chết chứ không chịu nhục”. Sự bộc trực, trung thành tuyệt đối của Trương Phi với Lưu Bị thể hiện ngay trong hành động đối đầu với Quan Công. Trong nhận thức của Trương Phi thì Quan Công đã phản bội lại tình nghĩa huynh đệ để đi theo Tào Tháo. Do đó khi thấy Quan Công đến Cổ Thành thì Trương Phi đã quyết tâm chiến đấu đến cùng “Phen này tao quyết liều sống chết với mày”. Vì sự trung nghĩa, Trương Phi đã tạm gác tình cảm cá nhân mà đối đầu với Quan Công như với kẻ thù vì lợi mà phản bội anh em.
Tính cách trung thực, nóng nảy nên khi nghe báo tin Quan Công và hai chị dâu đã đến cổ thành, Trương Phi đã ngay lập tức mặc áo giáp, lên ngựa dẫn quân đi qua cửa Bắc để bắt Quan Công. Hành động quyết liệt, dữ dội cùng với thái độ giận dữ “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Tuy nhiên, ở Trương Phi cũng tồn tại hạn chế của người võ tướng, vì nóng nảy mà Trương Phi mất đi khả năng đánh giá tình hình, cố chấp không chịu tin tưởng vào những lời giải thích của Quan Công.
Cuối cùng, khi Sái Dương kéo quân đến chân thành thì Trương Phi đã đưa ra một quyết định, đó là trong ba hồi trống, Quan Công phải chém được đầu của Sái Dương để chứng minh sự trong sạch. Trong ba hồi trống ấy, Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, tuy nhiên lúc này thì Trương Phi vẫn chưa dám tin tưởng hoàn toàn, chỉ đến khi hai chị dâu cùng một tên lính trung thành thuật lại mọi việc thì Trương Phi mới nhận ra mình hiểu lầm Quan Công.
Sự ân hận đã làm cho Trương Phi quỳ xuống mà khóc, cầu xin Quan Công tha thứ. Như vậy ta có thể thấy Trương Phi là người nóng nảy, thô lỗ không biết nhận thức tình hình nhưng lại là con người sống ngay thẳng, tình cảm, Trương Phi có thể sẵn sàng cầm giáo xông vào Quan Công khi hiểu lầm người anh em nhưng cũng có thể quỳ sụp xuống xin lỗi vì biết mình đã hiểu nhầm anh.
Qua đoạn trích “Hồi trống cổ thành” ta có thể thấy được một Trương Phi nóng nảy, bộc trực hết lòng trung thành với Lưu Bị mà còn là người sống tình nghĩa, ghét sự bội nghĩa.
Trương Phi là nhân vật nổi bật với tính cách bộc trực ngay thẳng, không biết dối trá úp mở, điều đó thể hiện qua lập trường trung thần rõ ràng, rạch ròi trong câu nói với hai người chị dâu “trung thần thà chết cũng không chịu nhục, có lẽ đâu đại trượng phu lại thờ hai chủ”. Từ đó dẫn đến sự suy xét, lập luận về sự xuất hiện của Quan Công theo quan điểm của Trương Phi, Quan Vân Trường xuất hiện ở đây sau khi đã hàng Tào Tháo, tức là đã bội nghĩa nhận phong hàng tứ tước của kẻ thù, hôm nay đến đây là để đánh lừa Trương Phi, mang theo quân mã để cướp cổ thành. Như vậy Trương Phi đã có đến ba lần buộc tội Quan Công, thứ nhất là “mày đã bội nghĩa còn mặt nào đến gặp tao nữa”, tức là tội bất nghĩa, thứ hai “mày bỏ anh hàng Tào Tháo được phong hầu tứ tước nay lại đến đây đánh lừa tao, phen này tao quyết liều sống chết với mày”, tức là tội bất trung, và cuối cùng là “mày cũng nói láo, nó đâu có bụng tốt, nó tới đây là để bắt ta đó”, tức là tội bất nhân. Cũng từ những lập luận trên mà dẫn đến sự phản ứng quyết liệt với Quan Công của nhân vật này, bao gồm 6 phản ứng. Khi Tôn Càn báo tin mời Trương Phi ra đón Quan Công thì nhân vật này “chẳng nói chẳng rằng, lập tức mặc áo giáp vác mâu lên ngựa dẫn theo một nghìn quân đi tắt ra cửa Bắc”, khi vừa nhìn thấy Quan Công thì “mắt trợn tròn xoe, râu hùm vểnh ngược, hò hét như sấm, múa xà mâu chạy lại đâm Quan Công”. Khi Quan Công hỏi nguyên cớ, thì nhân vật này nổi giận quát, đổi xưng hô mày – tao và buộc tội Quan Công ba tội bất nghĩa, bất trung và bất nhân. Khi Quan Công, hai chị dâu và Tôn Càn thanh minh thì Trương Phi gạt bỏ tất cả, khăng khăng tin tưởng vào lập luận và suy xét của mình. Khi toán quân mã mang cờ Tào kéo đến nhìn thấy bụi bay mù trời từ đằng xa thì Trương Phi lập tức nổi giận “mua bát xà mâu hăm hở xông lại đâm Quan Công lần nữa”. Khi Quan Công yêu cầu được chứng thực lòng trung của mình, thì Trương Phi chấp nhận nhưng đưa ra yêu cầu phải chém đầu tướng Tào trong ba hồi trống thì mới tin. Điều kiện thời gian là ba hồi trống bởi, nếu là năm hồi thì quá dài, không phù hợp với tính cách nóng nảy, bộc trực của Trương Phi, nhân vật này không thể đủ kiên nhẫn chờ đợi hết năm hồi trống, thêm vào đó mốc thời gian này nếu đưa ra còn làm hạ thấp đi tài nghệ của Quan Công. Còn nếu như chỉ là một hồi trống thì đây lại là một thử thách quá nghiệt ngã, thực chất trong lòng Trương Phi vẫn rất hy vọng rằng anh mình không phải là kẻ bất trung bất nghĩa, ba hồi trống ấy chính là quảng thời gian vừa đủ để Quan Công chứng thực được tấm lòng của mình. Như vậy việc đưa ra ba hồi trống không chỉ là thử thách mà còn gửi gắm cả niềm tin niềm hy vọng của Trương Phi với người anh kết nghĩa của mình.
Sau ba hồi trống Quan Công đã chém được đầu của Sái Dương, một tướng của Tào Tháo cuộc hội ngộ, hòa giải của Quan Công và Trương Phi diễn ra vô cùng xúc động. Nếu như trong cả tiểu thuyết cũng như trong phần đầu đoạn trích, Trương Phi hiện lên với tính cách nóng nảy, bộc trực thiếu kiên nhẫn, thì riêng trong phần hòa giải nhân vật này lại rất cẩn trọng, khác hẳn với tính cách thường ngày của nhân vật. Sau khi Quan Vân Trường chém được đầu Sái Dương, nhưng Trương Phi vẫn chưa tin hẳn, chỉ đến khi Quan Công bắt một tên lính cầm cờ hiệu của Tào Tháo hỏi chuyện đầu đuôi chuyện ở Hứa Đô, thì bấy giờ nhân vật Trương Phi mới tin anh mình trung thành tuyệt đối. Lại đến sau khi nghe tiếp hai chị dâu kể lại việc Quan Công đã trải qua thì lúc này Trương Phi mới thực sự hiểu được những khó khăn vất vả, đau khổ mà Quan Vân Trường đã phải chịu đựng. Thế nên nhân vật này đã rỏ nước mắt khóc thương và thụp lạy anh mình, giọt nước mắt ấy vừa sự đau lòng cho những vất vả, khó nhọc mà Quan Công đã phải chịu, bên cạnh đó đó còn là giọt nước mắt hối hận về những hành động hồ đồ ban đầu của bản thân. Còn cái quỳ lạy thứ nhất là thể hiện sự cảm phục nghị lực, sự ẩn nhẫn và nhân cách của Vân Trường, thứ hai là để tạ lỗi với anh của mình.
Như vậy qua đoạn trích Hồi trống cổ thành, nhân vật Trương Phi đã xuất hiện với những nét tính cách nổi bật, nóng nảy, thiếu kiên nhẫn, bộc trực, thẳng thắn, tuy nhiên đến lúc cần suy xét thì nhân vật này lại bộc lộ bản tính cẩn thận khác xa tính cách vốn có của mình. Điều đó thể hiện sự trân trọng, niềm hy vọng mãnh liệt vào tấm lòng của người anh kết nghĩa là Quan Công mà tổng thể những ý nghĩa này lại nằm gói trọn trong ba hồi trống ở cổ thành.
6 Bài Văn Phân Tích Vở Kịch “Tôi Và Chúng Ta” Của Lưu Quang Vũ
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 6
Trong cuộc đối thoại giữa Giám đốc Hoàng Việt và Phó Giám đốc Nguyễn Chính sau khi kĩ sư Lê Sơn trình bày về kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí nghiệp, xuất hiện hai quan điểm đối lập nhau. Người phản đối, Phó Giám đốc Nguyễn Chính: “Tôi ngỡ như mình đang ngủ mê”. Giám đốc Hoàng Việt “Thì anh hãy thức dậy”.
Đối thoại ấy đã phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa một bên cho rằng phải đổi mới vì có đổi mới thì quy luật khách quan mới được vận hành: sản xuất phát triển, đời sống kinh tế xã hội và đời sống con người được nâng lên. Còn phía bảo thủ thì quan niệm ngược lại: chế độ và phương thức quan liêu bao cấp đã tồn tại mấy chục năm, cơ chế ấy đã tồn tại và sẽ còn tồn tại khồng gì thay đổi được. Dù chỉ là tiếng nói của hai con người chủ chốt trong một xí nghiệp có vài trăm công nhân nhưng ý nghĩa khái quát của nó thì không hể nhỏ. Đó là một cuộc đấu tranh có quy mô toàn xã hội. Điều này giải thích sức hấp dẫn sâu sắc và rộng lớn của Tôi và chúng tư với khán giả một thời, thời đổi mới.
Hoàng Việt và Lê Sơn là những người “nổ phát súng” đầu tiên vào cái thành trì tư tưởng thực ra đã bị lung lay (sự bảo thủ, trì trệ của cơ chế quan liêu) mà cứ tự cho là vững chắc ấy. Đầu tư để mở rộng sản xuất, thay đổi nguyên tắc tiền lương để khuyến khích lao động, đó là những mũi nhọn đột phá. Làm được như thế, mức sản xuất của xí nghiệp có thể tăng lên so với hiện nay gấp năm lần, còn lương của công nhân xí nghiệp cũng tăng lên tương ứng (ít ra là bốn lần so với hiện nay). Xí nghiệp nhà nước mà nghĩ cách làm tăng sản phẩm cho nhà nước, làm giàu cho xã hội, cải thiện về cơ bản cho đời sống công nhân, đó là ước mơ, là nguyện vọng của nhiều người.
Nhưng vấn đề đặt ra là ở chỗ : nó vấp phải những ràng buộc. Vậy thì phải phá vỡ những ràng buộc đó đi, phải cởi trói cho sản xuất. Cái đúng của hôm qua không còn đúng với hôm nay, như Hoàng Việt nói: “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên… có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ”. Trong vỡ kịch, bao nhiêu sự bảo thủ, trì trệ bị vạch trần, như sản xuất của xí nghiệp lẽ ra phải do xí nghiệp đề ra nhưng từ trước tới giờ đều do cấp trên quyết định, và cái cấp trên này lại phụ thuộc vào một cấp trên cao hơn nữa. Thật hồ đồ, nghịch lí đến “ngược đời”. Ai đẻ ra các thứ kế hoạch hai, kế hoạch ba (nâng cao đời sống công nhân bằng con đường không chính thức)? “Một xí nghiệp làm ăn chính quy chỉ cần một kế hoạch. Xí nghiệp chúng ta chỉ có một kế hoạch, nhưng là kế hoạch do chúng ta định ra. Kế hoạch sản xuất sẽ không còn ở mức hiện nay.
Trước mắt, kế hoạch sẽ tăng lên ít nhất là gấp năm lần”. Vấn đề tự chủ trong việc xí nghiệp đụng đến bao nhiêu vấn để xung quanh nó. Tự chủ về biên chế, tự chủ vể chi tiêu, tự chủ về tiền lương,… và chưa hết, nó đụng đến bao nhiêu con người cụ thể đại diện cho cơ chế cũ của cái thời bao cấp quan liêu (ông Phó Giám đốc, bà Trưởng phòng tài vụ, dồng chí Quản đốc phân xưởng,…). Họ là những con người, thậm chí giữ những cương vị chủ chốt của xí nghiệp, nhưng nếu cần hoặc nếu họ không còn cần thiết nữa, không thể để họ ngồi yên trên những chiếc ghế quan liêu. Tính triệt để, tính cách mạng về tư tưởng của vở kịch có tác dụng mở đường cho một giai đoạn mới của đất nước. Nó đã được đông đảo người đọc, người xem chấp nhận, đồng tình, cổ vũ.
2. Về nhân vật kịch, có thể chia làm hai loại, nếu Nguyễn Chính, Trương, bà Trưởng phòng tài vụ là đại diện cho cơ chế cũ, cho cách nghĩ cũ thì Hoàng Việt, Lê Sơn đại diện cho cái mới, cho xu thế tiến lên đúng quy luật của xã hội. Các nhân vật tiêu cực dường như có một sự thoả hiệp nào đó về mặt tinh thần dể cùng trên một chiến tuyến, để liên kết với nhau nhưng mỗi người một khác. Có cái đơn giản máy móc của Trương, làm Quản đốc vì tổ chức của phân xướng cần có một vị trí điêu hành (xưa nay vẫn thế). Có cái cứng nhắc, lì lợm của bà Trưởng phòng tài vụ. Quen thói cửa quyền, bà ta ra sức cản trở, thẳng thừng phản đối một cách đúng nguyên tắc, theo nhiệm vụ được giao.
Còn Nguyễn Chính hai mặt, ném đá giấu tay. Đối thoại với Giám đốc, anh ta thật nhã nhặn ôn hoà, nhưng bằng sự đánh giá của Lê Sơn, anh ta mới là một người cao thủ, chờ cho Giám đốc sa lầy rồi mới ra tay và anh ta có chỗ, có nơi để làm việc đó. Một con người “đã từng đánh đổ bốn đời Giám đốc” còn biết nể ai, sợ ai. Cái cách “ngậm miệng ăn tiền” ấy là thuộc về những tính cách không đơn giản mà người ta phải cẩn trọng, đề phòng, phải luôn luôn cảnh giác. Toả ánh sáng trong lớp kịch này là từ nhân vật Hoàng Việt. Đây là hình mẫu về con người mới trong giai đoạn hiện nay. Nếu nói một cách vắn tắt và đơn giản thì đó là một cá tính mạnh, năng động, dám nghĩ, dám nói và dám làm.
Có thể liên tưởng anh là một chiến sĩ trên mặt trận không có tiếng súng đang tả xung hữu đột giữa vòng vây thắt ngặt gươm đao. Cũng có thể nghĩ anh là ngọn cờ đang tiên phong đi trước mớ đường, một con đường gian nan đi tìm hạnh phúc. Đối với kĩ sư Lê Sơn, Hoàng Việt khích lệ, động viên, tạo điều kiện, đánh thức khát vọng ước mơ: “Tôi chỉ dọn bãi để cậu sút bóng, để cái đầu của cậu được có chỗ dùng”. Nhưng đối với những nhân vật cản đường, anh thật là sắc sảo. Với Quản đốc Trương, người không hết băn khoăn nếu “chức vụ quan trọng” của mình bị xoá bỏ, Việt nói thẳng : “Không có chức vụ nào quan trọng cả, chỉ có hiệu quả công việc là quan trọng”.
Với bà Trưởng phòng tài vụ thích đưa những quy định, những nguyên tắc ra để gây khó dễ không chịu thi hành lệnh của Giám đốc thì Giám đốc không một đắn đo: “Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị”. Còn Phó Giám đốc là gì, trước câu hỏi tưởng như phức tạp, vòng vo, Việt có một định nghĩa chính xác, tức thời, thẳng thắn: “Tức là chức vụ giúp việc cho Giám đốc. Nếu không đồng ý với chức vụ ấy, đồng chí có thể xin từ chức”. Nghĩa là Giám đốc đã sẵn sàng đối mặt với mọi tình huống có thể xảy ra.
Sắc sảo, tự tin, quyết đoán, phải chăng những phẩm chất ấy là cái cần cho những người ở cương vị lãnh đạo hiện nay mà Hoàng Việt dang có đủ. Cái đức, cái tài ở nhân vật không còn là những khái niệm chung chung. Nó đã biến thành khả năng hành động, khả năng xoay chuyển tình thế để cuộc sống tiến lên và theo đó, con người cũng tự hoàn thiện nhân cách của mình. Vở kịch vừa mang tính chiến đấu vừa có ý nghĩa nhân văn chính là vì thế.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 5Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 6
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) quê ở Quảng Nam, lớn lên ở Hà Nội; tham gia quân đội thời kì chống Mĩ và bắt đầu làm thơ từ những năm I960. Đến năm 1980, tác giả chuyển hẳn sang lĩnh vực sân khấu. Chỉ chưa đầy mười năm, ông đã sáng tác khoảng năm mươi kịch bản, đề tập đến hàng loạt vấn đề thời sự nóng hổi trong thời kì xã hội chuyển động mạnh mẽ theo hướng đổi mới. Hầu hết các vở kịch của ông đã được dàn dựng và biểu diễn. Ông mất đột ngột vì tai nạn giao thông, khi tài năng đang lên tới đỉnh cao. Năm 2000, Lưu Quang Vũ đã được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học
Vở kịch Tôi và chúng ta ra đời trong hoàn cảnh xã hội có nhiều thay đổi lớn lao. Sau đại thắng mùa xuân 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, bắt đầu chuyển sang giai đoạn lịch sử mới. Nhiệm vụ chính trị hàng đầu của toàn Đảng, toàn dân là khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế để xây dựng Việt Nam thành một đất hước giàu mạnh phồn vinh. Trước yêu cầu này, nhiều nguyên tắc, quy chế và phương thức sản xuất cũ ngày càng tỏ ra xơ cứng, lạc hậu. Muốn phát triển sản xuất cần phải thay đổi tư duy, phá bỏ cách suy nghĩ, cách làm việc cũ kĩ, lạc hậu, thay đổi phương thức quản lí, tổ chức, không thể giữ mãi các nguyên tắc, phương pháp đã lỗi thời trước nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Đây là một quá trình đấu tranh lâu dài, gay gắt, cần đến những con người có trí tuệ và bản lĩnh, dám nghĩ dám làm.
Vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ ra đời trong hoàn cảnh ấy đã được mọi người nồng nhiệt đón nhận và đánh giá là khá thành công về nội dung, nghệ thuật qua việc xây dựng tình huống kịch hấp dẫn với các nhân vật có tính cách tương phản rõ nét. Nội dung vở kịch phản ánh cuộc đấu tranh gay gắt để thay đổi phương thức tổ chức, lề lối hoạt động sản xuất ở xí nghiệp Thắng Lợi. Một bên là tinh thần dám nghĩ dám làm, khát khao đổi mới vì lợi ích tập thể mà đại diện là Giám đốc xí nghiệp Hoàng Việt, kíp trưởng Thanh, kĩ sư Lê Sơn và đa số anh chị em công nhân. Một bên là tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy các nguyên tắc, quy chế đã thành cứng nhắc, lạc hậu với đại diện là Phó Giám đốc Nguyễn Chính, Quản đốc phân xưởng Trương, được sự hỗ trợ của đại diện ban thanh tra của Bộ là Trần Khắc.
Hiện trạng của xí nghiệp Thắng Lợi được nhắc đến trong vở kịch này có tính chất khá phổ biến đối với nhiều xí nghiệp, nhà máy lúc bấy giờ. Máy móc cũ kĩ, lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ, tổ chức, phân công lao động không hợp lí, kém hiệu quả. Đời sống của anh chị em công nhân ngày càng khó khăn. Thay đổi phương thức sản xuất đã trở thành yêu cầu tất yếu. Những con người tiên tiến đã nhận ra điều ấy và khát khao được biến nó thành hiện thực. Nhưng họ đã vấp phải sự chống đối quyết liệt của những kẻ bảo thủ, xu nịnh, mượn danh nghĩa bảo vệ truyền thống mà Nguyễn Chính là đại diện. Cuộc đấu tranh giữa hai phái thật gay gắt nhưng đương nhiên chiến thắng sẽ thuộc về những con người mới.
Đoạn trích trong sách giáo khoa chiếm gần hết cảnh ba của vở kịch Tôi và chúng ta (gồm chín cảnh), nội dung diễn tả cuộc xung đột trực tiếp đầu tiên giữa hai phái (nhân vật Hoàng Việt, nhân vật Nguyễn Chính có thể xem là các đại diện) khi họ công khai bộc lộ quan điểm của mình. Ở hai cảnh trước của vở kịch, Lưu Quang Vũ đã hé mở tình huống mâu thuẫn và tính cách của các nhân vật chính. Đến cảnh ba, tác giả tập trung thể hiện cuộc đối đầu gay gắt công khai đầu tiên giữa hai tuyến nhân vật diễn ra trong phòng làm việc của giám đốc Hoàng Việt. Vậy tình huống kịch và mâu thuẫn cơ bản ở đoạn trích này là gì?
Đó là tình trạng ngưng trệ sản xuất của xí nghiệp đã đến lúc phải giải quyết bằng những quyết định táo bạo. Sau quá trình tìm hiểu kĩ càng, hôm nay, quyền giám đốc Hoàng Việt (mới nhận chức vụ này hơn một năm) quyết định công bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới. Như vậy có nghĩa là anh (cùng với kĩ sư Lê Sơn) đã công khai tuyên chiến với cơ chế quản lí và phương thức tổ chức đã trở nên lỗi thời. Những công bố của Hoàng Việt liên tiếp gây bất ngờ đối với nhiều người.
Những tình tiết mà tác giả đưa ra chứng minh cho mâu thuẫn căng thẳng giữa cái mới và cái cũ. Điều đó thể hiện qua tính cách của các nhân vật tiêu biểu, mà tính cách chủ yếu được bộc lộ qua hành động và ngôn ngữ.Giám đốc Hoàng Việt là một người lãnh đạo có bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm cao, dám nhìn thẳng vào sự thật, dũng cảm sửa sai, năng động, dám nghĩ, dám làm, biết sử dụng người có khả, năng để phục vụ cho lợi ích của tập thể, cho sự phát triển của xí nghiệp. Đứng trước những khó khăn rất lớn của xí nghiệp, Hoàng Việt đã triệu tập cuộc họp toàn thể ban lãnh đạo để trình bày kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới. Theo ông, muốn phát triển quy mô sản xuất, phải tận dụng hết khả năng lao động của công nhân, mà muốn vậy thì phải lo đủ nguồn vật tư, nguyên liệu.
Trước hết, ông đã giải quyết vấn đề quỹ lương bằng một quyết định bất ngờ và táo bạo: Trước mắt, chúng ta sẽ dừng việc xây nhà khách, sẽ có tiền trả đủ hai tháng lương. Sau này sẽ truy hoàn. Việc làm này của Giám đốc thật dũng cảm bởi ông đã phá vờ cơ chế cũ, dám chịu trách nhiệm trước việc làm của mình. Tiếp đó, ông đề cập đến việc tu sửa máy móc hỏng hóc, đặt ra chế độ lương khoán theo sản phẩm để từ đó nâng cao mức lương của công nhân.
Theo tính toán của ông thì: Nếu trả lương khoán, năng suất của mỗi công nhân sẽ tăng gấp năm, sẽ không ai phải lo bện thừng gia công kiếm thêm nữa. Mức sản phẩm của xí nghiệp sẽ tăng ít nhất gấp năm, đương nhiên lương của công nhân viên xí nghiệp sệ phải tăng ít ra là bốn lần… Với số lương tối thiểu ấy, người công nhân mới có thể sống mà không chết đói không làm bậy. Muốn tăng sản xuất, phải đầu tư. Khâu cần đầu tư trước tiên là con người. Đến cái máy cũng phải có đủ nhiên liệu nó mới làm việc được… Và phải làm ra trò. Cái dở lâu nay của chúng ta là người chăm và kẻ lười được đối xử như nhau, người tài năng và kẻ dốt nát đều hưởng chung một mức quyền lợi, thậm chí cỏ những kẻ không làm gì cả, chỉ ngồi phán thôi, lại được vì nể hơn những người đã vất vả cống hiến. Xã hội chủ nghĩa gì mà lại lạ thế ? Không, từ nay ai càng làm được nhiều sản phẩm sè phải được hưởng lương càng cao, ai làm tồi sẽ bị phạt bằng tiền, đó sẽ là nguyên tắc của xí nghiệp chúng ta!
Lời phát biểu chính xác và đầy nhiệt huyết ấy của Giám đốc Hoàng Việt đã được mọi người hoan hô rầm rộ. Giám đốc Hoàng Việt đã giải quyết sự ngưng trệ sản xuất của xí nghiệp bằng chủ trương, biện pháp toàn diện và mạnh mẽ. Điều đó cho thấy niềm tin vững chắc của ông vào bản thân và vào sức mạnh của tập thể công nhân. Là người trung thực, Hoàng Việt dũng cảm đấu tranh với niềm tin là chân lí sẽ thắng. Ông mạnh dạn thay đổi bộ máy lãnh đạo bảo thủ và không có năng lực. Khi bà Trưởng phòng tài vụ không chịu chi tiền, ông nói: “Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị… Cô Loan kế toán – Trưởng phòng tài vụ, hãy chuẩn bị cho công nhân lĩnh lương mới từ thảng tới”.Ông bãi bỏ chức vụ của Quản đốc Trương khi nhận ra rằng nếu sản xuất theo cơ chế mới, ông ta sẽ là người thừa: Những việc đó các tổ trưởng phải tự lo lấy. Các tổ trưởng sẽ trực tiếp làm việc với các trưởng ngành và Ban giám đốc, không cần phải qua một người trung gian là Quản đốc làm gì cho mất thì giờ. Tóm lại, chúng tôi xét thấy rằng: Ở xí nghiệp ta, chức Quản đốc phân xưởng là thừa, từ nay xí nghiệp sẽ không có chức Quản đốc nữa.
Lê Sơn là một kĩ sư có năng lực, trình độ chuyên môn giỏi, từng gắn bó nhiều năm với xí nghiệp. Dù biết rằng cuộc đấu tranh chống nếp nghĩ cũ kĩ, lạc hậu sẽ rất khó khăn nhưng anh vẫn chấp nhận, sẵn sàng cùng Hoàng Việt cải cách toàn diện hoạt động của xí nghiệp. Anh là người trực tiếp soạn thảo ra phương án mới. Tuy thế, anh không khỏi băn khoăn vì bao khó khăn, trở ngại chồng chất trước mắt. Nhưng anh vẫn sẵn sàng cùng Giám đốc thực hiện bằng được những ý tưởng đúng đắn, tiến bộ. Anh đã nói với Giám đốc rằng: – Thôi được, hứa với anh: Tôi không bỏ chạy đâu! Chỉ tuần sau là quy trình sản xuất mới sẽ được triển khai. Ông Đông Ki-sốt khổ thân tôi, tôi lại giống kị mã Xan-chô, rất yêu và không thể thiếu được Đông Ki-sốt. Này, nhưng dứt khoát các cối xay gió nó sẽ cho chúng ta ăn đòn nhừ tử đấy!
Phố giám đốc Nguyễn Chính tiêu biểu cho loại người máy móc, bảo thủ nhưng cũng gian ngoan, nhiều mánh khóe. Nguyễn Chính luôn vịn vào cơ chế, vào các nguyên tắc đã trở thành lạc hậu để chống lại sự đổi mới. Anh ta chuyên môn kém nhưng lại khéo luồn lọt, xu nịnh cấp trên. Chúng ta hãy lắng nghe lời đối thoại giữa Giám đốc Hoàng Việt và Phó giám đốc Nguyễn Chính:
– Anh Việt, tôi hi vọng tất cả những điều anh vừa nói, anh sẽ nghĩ lại.
– Tôi đã suy nghĩ rất kĩ.
– Tồi ngỡ như mình đang ngủ mê.
– Thì anh hãy thức dậy.
– E rằng người đang ngủ mê lại là anh đấy, làm đảo lộn hàng loạt lề thói, vi phạm hàng loạt nguyên tắc. Đồng chí sẽ giải thích thế nào với cấp trên?
– Như vừa giải thích với các đồng chí vậy.
– Đồng chí bất chấp các quy định nghiêm ngặt của cả một hệ thống các cơ quan tài chính, ngân hàng, lao động, vật tư…
– Những quy định từ lâu đã thành bất hợp lí, phục vụ cho một cơ chế quản lí đã cũ kĩ, lạc hậu.
– Đã cũ kĩ lạc hậu. Không đâu Ị Cái cơ chế mà đồng chí mạt sát ấy tồn tại bền vững mấy chục năm nay. Nhờ nó mà chúng ta có hôm nay, có chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay, hạt gạo đồng chí ăn, cái áo đồng chí mặc và cả chính con người đồng chí nữa đã được rèn luyện và trưởng thành trong cơ chế ấy. Đừng vội vã phủ nhận!
– Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ, mong anh thông cảm và hiểu cho tôi.
– Tất cả những việc đồng chí định tiến hành, không có trong nghị quyết Đảng ủy xí nghiệp. Đảng ủy chưa quyết định, đồng chí Việt ạ.
– Có. Nghị quyết Đảng ủy là đẩy mạnh sản xuất và ổn định đời sống công nhân. Còn biện pháp thực hiện thế nào là trách nhiệm của Giám đốc.
– Nhưng… đồng chí Việt… Chúng tôi không có quyền gì sao? Tôi là…
– Đồng chí là Phó giám đốc, tức là chức vụ giúp việc cho Giám đốc. Nếu không đồng ý với chức vụ ấy, đồng chí có thể xin từ chức…
– Được rồi,., đồng chí quá tự tin đấy! Được để rồi xem…
Lúc Nguyễn Chính bực tức bỏ đi, kĩ sư Lê Sơn nói với Giám đốc Hoàng Việt:
– Anh vội vã quá ! Anh đã đánh giá thấp đồng chí Phó Giám đốc của chúng ta! Con người ấy đã từng đánh đổ bốn đời Giám đốc. Hắn thuộc loại người nếu bắt tay mình, mình phải xem lại tay có còn đủ năm ngón không! So với hắn ta, anh chỉ là cừu non. Từ nay, Chính sẽ không can ngăn anh nữa đâu, hắn sẽ để mặc anh dấn thân vào các sự việc rồi hắn mới ra tay. Hắn sẽ có chỗ có nơi để làm việc đó… Anh không sợ à?
Phản ứng của Phó Giám đốc Nguyễn Chính rất gay gắt bởi ông ta có chỗ dựa vững chắc là cấp trên, là nguyên tắc và Nghị quyết của Đảng ủy xí nghiệp.
Quản đốc phân xưởng Trương là người suy nghĩ và làm việc như một cái máy, thích tỏ ra quyền thế, hách dịch với anh chị em công nhân. Công việc từ trước đến này của ông ta là trông coi, quản lí, đốc thúc các tổ thợ, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực, báo cáo lên Giám đốc. Khi Giám đốc Hoàng Việt khẳng định sẽ không còn chức vụ này nữa thì ông ta tỏ thái độ bất bình ngay lập tức: Tôi không hiểu… Nếu như chúng tôi có khuyết điểm gì đồng chí có thể khiển trách, kỉ luật, đằng này… Xưa nay phân xưởng vẫn phải có Quản đốc. Không phải tôi ham địa vị, nhưng bãi bỏ cả một chức vụ quan trọng như chức Quản đốc phân xưởng thì thật là…
Đến đây, chúng ta có thể thấy rõ mâu thuẫn gay gắt giữa hai tuyến nhân vật, đại diện cho phái đổi mới và phái bảo thủ trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa cái mới và cái cũ. Đây là cuộc đấu tranh có tính tất yếu và gay gắt: Tình huống xung đột mà vở kịch nêu lên là vấn đề thời sự nóng bỏng của thực tiễn đời sống. Các quan niệm mới, cách làm mới ở giai đoạn đầu tất nhiên sẽ vấp phải nhiều cản trở.
Qua đoạn trích trên, chúng ta thấy được cuộc đấu tranh gay gắt giữa những con người mạnh dạn đổi mới với những kẻ mang nặng tư tưởng bảo thủ, lạc hậu trong hoàn cảnh đất nước có nhiều biến chuyển mạnh mẽ để vươn lên và phát triển theo yêu cầu của lịch sử.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 5
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 4Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 5
Lưu Quang Vũ – nhà viết kịch thiên tài của Việt Nam. Ông đã để lại biết bao nhiêu sáng tác giàu ý nghĩa. Bên cạnh vở kịch mang đậm tính triết lý nhân sinh là Hồn Trương Ba da hàng thịt thì vở kịch Tôi và chúng ta cũng là một trong những vở đặc sắc. Đặc biệt cảnh 3 của vở kịch Tôi và chúng ta là đoạn xung đột nhất, đáng xem nhất của toàn vở kịch này.
Tình huống kịch là sự mâu thuân giữa một bên là giám đốc Hoàng Việt và một bên là phó giám đốc Nguyễn Chính. Đó là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Hoàng Việt nhận thấy được những khó khăn mà công nhân và xí nghiệp đang phải đối mặt cho nên anh đã đưa ra một quyết định táo bạo về sự thay đổi trong cách thức hoạt động sản xuất của xí nghiệp.
Giám đốc Hoàng Việt đại diện cho tư tưởng mới đưa ra ý kiến mở rộng sản xuất, tăng lương cho công nhân, giảm biên chế tăng hợp đồng lao động, thay đổi phương thức sản xuất, chủ động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, thúc đẩy xu thế phát triển của xã hội. Thế nhưng trái lại với tư tưởng mới mẻ và hiện đại ấy thì phó giám độc Nguyễn Chính đại diện cho những người vẫn muốn giữ khư khư những cách thức hoạt động xưa cũ, bảo thủ.
Tư tưởng cũ thể hiện ở chỗ làm theo chỉ tiêu, làm theo nguyên tắc tài chính và theo nguyên tắc tổ chức lao động. Phương thức hoạt động sản xuất thì lỗi thời, kém hiệu quả, thụ động, máy móc và bảo thủ. Điều đó làm kìm hãm sự phát triển của xã hội. Có thể nói trong thời kì đất nước hòa bình đang từng bước chuyển mình sang nền kinh tế mới, cuộc chiến tranh giữa cái mới và cái cũ cũng ác liệt chẳng kém gì cuộc chiến tranh tự do dân tộc. Đó là cuộc chiến một mất một còn.
Về mối quan hệ giữa cái tôi và cái ta chung thì cần phải có một cách nhìn mới. Cái ta ở đây không còn chung chung nữa mà cái ta bao quát cái chung. Trong cái ta chung là những cái tôi cụ thể. Khi quyền lợi và nghĩa vụ của cái tôi được đảm bảo thống nhất với quyền lợi và nghĩa vụ của cái ta chung thì nó sẽ tạo thành một sức mạnh tổng hợp. Muốn cái ta chung phát triển thì mỗi cá nhân cái tôi cũng phải được tôn trọng và phát triển.
Đặt vở kịch vào bối cảnh đất nước mới thấy được hết vấn đề bức thiết của dân tộc ta. Chiến tranh đã qua đi nhưng tàn dư mà nó để lại thì không hề nhỏ. Dân tộc ta phải làm việc gấp nhiều lần để có thể làm xây dựng lại đất nước. Chính vì thế trong xã hội mới chúng ta cần phải cải cách với những chính sách mới để bắt kịp được với các nước trên thế giới.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 3Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 4
Giữa thập kỉ tám mươi của thế kỉ XX, công chúng yêu kịch có dịp được thưởng thức những vở kịch nóng hổi tính thời sự của nhà thơ, nhà soạn kịch tài năng Lưu Quang Vũ. Những vấn đề của đất nước trong giai đoạn chuyển mình, đổi mới nhằm đáp ứng mục tiêu xây dựng đất nước đã được đề cập một cách khá cụ thể, có ý nghĩa khái quát trong vở kịch Tôi và chúng ta của tác giả. Vở kịch đã tạo nên một tiếng vang, gợi lên những suy ngẫm về mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa cái bảo thủ lạc hậu và tư tưởng đổi mới táo bạo, khuyến khích cổ vũ cho những con người bằng khả năng và nhiệt tình quyết tâm thay đổi lề lối làm việc và tư duy cũ, để góp công sức cùng mọi người đưa đất nước đi lên.
Toàn bộ xung đột kịch xoay quanh lề lối làm ăn của một xí nghiệp nhà nước, gắn với hai tuyến nhân vật : một bên là giám đốc Hoàng Việt cùng người cộng sự là kĩ sư Lê Sơn – đại diện cho những người quyết tâm thay đổi tư duy cũ, tìm kiếm giải pháp cứu vãn xí nghiệp ; một bên là phó giám đốc Nguyễn Chính với tư duy cũ mòn, chạy theo thành tích, cố tìm cách củng cố địa vị và vây cánh cá nhân nhằm mưu đồ lợi ích riêng. Xung đột ấy đã tạo nên một cuộc đụng độ về quan điểm trong cuộc họp xí nghiệp, khi Hoàng Việt chính thức tuyên chiến với lề thói cũ, đổi mới phương thức sản xuất theo phương án của Lê Sơn.
Qua tình huống kịch tính này, tác giả Lưu Quang Vũ đã có những kiến giải khá táo bạo về mối quan hệ Tôi và chúng ta khác hẳn với suy nghĩ của nhiều người. Tôi và chúng ta, mối quan hệ riêng – chung ấy đặt vào hai phương diện quyền lợi và trách nhiệm thường tỉ lệ nghịch với nhau ở những kẻ cơ hội, bảo thủ. Vì thế cuộc đấu tranh diễn ra không hề đơn giản, vì chính những kẻ ấy thường nhân danh tập thể tạo áp lực cho những người muốn đổi mới tư duy, thay đổi lề lối cũ.
Đoạn trích cảnh ba của vở kịch tập hợp những nhân vật chính trong bối cảnh một cuộc họp. Kịch tính bắt đầu ngay sau lời tuyên bố kế hoạch mở rộng sản xuất và phương án làm ăn mới của xí nghiệp của giám đốc Hoàng Việt mà người trực tiếp soạn thảo là kĩ sư Lê Sơn. Ngay cả người đề ra phương án cũng không nghĩ rằng nó được triển khai một cách nhanh chóng và dứt khoát như thế. Lê Sơn là người làm chuyên môn, anh hiểu rõ những lực cản không vì những lí do kĩ thuật mà lại bắt đầu từ phía những kẻ bảo thủ cơ hội quen nếp tư duy máy móc, phụ thuộc vào cấp trên.
Vì vậy, ban đầu Lê Sơn đã tỏ ra ngần ngại vì dẫu sao anh chưa bao giờ dám đứng ra đối mặt với cả một bộ máy với sự trì trệ kéo dài. Sự lo ngại của anh đã tạo ra tâm lí bất bình của anh em công nhân, bộc lộ trực tiếp trong cảnh “Mọi người ồn ào. Tiếng ông Quých : cậu ấy nhát !”. Bởi vậy, lương tâm của một kĩ sư giỏi đã khiến anh trình bày phương án làm động chạm đến những người như phó giám đốc Nguyễn Chính và bà Trưởng phòng Tài vụ. Nút thắt ban đầu đã được gỡ, nhưng những vướng mắc chính đến giờ mới thực sự bùng phát, qua cuộc đấu khẩu của Hoàng Việt và hai nhân vật bảo thủ điển hình kia.
Đoạn đối thoại xoay quanh những vấn đề quen thuộc của một xí nghiệp sản xuất : kế hoạch, nhân sự, tiền lương gắn với quy mô sản xuất mở rộng… Tính luận chiến trong những đối thoại cho thấy sự trái ngược quan điểm giữa hai phía đổi mới và bảo thủ. Bằng những câu hỏi liên tục, Hoàng Việt đã thể hiện bản lĩnh của một người dám đứng mũi chịu sào vì quyền lợi chung của tập thể. Với quyết tâm thực hiện mục tiêu tăng kế hoạch sản xuất ít nhất là gấp năm lần, anh đã vạch ra sự vô lí từ thái độ lúng túng của Nguyễn Chính : “cấp trên cao hơn lại dựa vào cấp trên cao hơn nữa, nghĩa là các kế hoạch được đề ra một cách ngược đời. Đáng lẽ phải do từ cơ sở đưa lên, dựa trên khả năng cơ sở và yêu cầu của thị trường”. Có thể nói, sự công kích của Hoàng Việt không nhắm vào cá nhân Nguyễn Chính, mà đó cũng là lời tuyên chiến với một cơ chế cũ kĩ đã ngự trị hàng chục năm trong các xí nghiệp Nhà nước.
Đối phó lại ý kiến giám đốc, Nguyễn Chính đã biện minh bằng kế hoạch hai, kế hoạch ba – mượn danh nghĩa vì lợi ích tập thể để đổ tội cho Hoàng Việt là con nguời cá nhân độc đoán khước từ quyền lợi anh em công nhân. Nhưng lời khẳng định của Hoàng Việt đã phủ nhận cách toan tính thực dụng, chỉ thấy lợi trước mắt mà biến xí nghiệp chính quy thành một nơi giải quyết đời sống công nhân theo kiểu nặng về tư lợi mà không đếm xỉa lợi ích chung cho xã hội, cộng đồng. Một xí nghiệp chính quy là cơ sở để ổn định cuộc sống lâu dài cho công nhân, đó là một suy nghĩ đúng đắn nên không ai phản đối. Những vuớng mắc về nhân lực và quỹ lương đã nhanh chóng được người giám đốc dũng cảm ấy nhanh chóng tháo gỡ bằng những giải pháp hợp lí hợp tình.
Những tưởng vướng mắc nhanh chóng được giải quyết bằng những mệnh lệnh của giám đốc nhưng phía bảo thủ – mà đại diện tiếp theo là bà Trưởng phòng Tài vụ – đã tìm cách ngăn cản bằng những nguyên tắc tài chính, bất chấp yêu cầu cần thiết phải có ngân sách chi cho máy móc để nâng cao năng lực sản xuất. Quyết liệt hơn, ngay cả khi có lệnh giám đốc, bà ta vẫn viện cớ : “Tôi phải làm đúng những quy định”. Với loại người ấy, Hoàng Việt đã tỏ thái độ dứt khoát, kiên quyết theo nguyên tắc thủ trưởng : “Nếu không thi hành, sẽ có người khác làm thay chị” , lời nói ấy không phải là sự độc đoán chuyên quyền, bởi lẽ không phải xuất phát từ động cơ cá nhân.
Tinh thần đổi mới triệt để được thể hiện với một ý chí tiến công vào những tiêu cực để biểu dương nhân tố mới cho ta thấy rõ phẩm chất của giám đốc Hoàng Việt. Không những thế, vấn đề quan tâm hàng đầu là đời sống công nhân đã được anh xử lí linh hoạt có lí có tình. Hoàng Việt đã thể hiện đúng phẩm chất của một người lãnh đạo đơn vị sản xuất, rất linh động và cũng rất dân chủ với những quyết định của mình. Với sự tỉnh táo và sáng suốt như thế, mọi mưu toan nhằm làm trì trệ tiến trình đổi mới sẽ thất bại và anh giành được sự tín nhiệm cao của quần chúng tiến bộ.
Tính triết lí của vở kịch không chỉ dừng lại trong sự đối chọi giữa cái tôi đại diện cho cái ta với những kẻ nhân danh chúng ta để thủ lợi cá nhân. Đó còn là xung đột gay gắt trên quan điểm tiến bộ và lạc hậu, đổi mới và bảo thủ, xử lí triệt để mối quan hệ cá nhân và tập thể, đem đến một cách hiểu đúng đắn về tôi và chúng ta. Đó là khi Nguyễn Chính cao giọng ngụy biện cho cơ chế quản lí đã cũ kĩ lạc hậu : “Cái cơ chế mà đồng chí mạt sát ấy đã tồn tại hàng chục năm nay. Nhờ nó mà chúng ta có hôm nay, có chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay, hạt gạo đồng chí ăn, cái áo đồng chí mặc và cả chính con người đồng chí nữa đã được rèn luyện và trưởng thành trong cơ chế ấy. Đừng vội vã phủ nhận !”. Quả thật là một sự ngụy biện tinh xảo, được nói lên bởi một người từng “đánh đổ bốn đời giám đốc”, bởi lẽ Nguyễn Chính đã dựa vào “chủ nghĩa xã hội” là mục đích của tất cả chúng ta.
Nhưng bản lĩnh và quyết tâm của người giám đốc dũng cảm Hoàng Việt đã giúp anh vượt qua lực cản ghê gớm của lời xảo ngôn như buộc tội để nói đúng tâm nguyện thật sự của chúng ta– những người mong muốn chủ nghĩa xã hội thực sự phát triển : “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ, mong anh thông cảm và hiểu cho tôi”. Một lần nữa, Hoàng Việt đã chứng tỏ một cáitôiđúng đắn, không rời xa những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội, vừa khẳng định ý chí của tất cả chúng tavừa vạch trần sự ngụy biện của kẻ cơ hội như Nguyễn Chính.
Thực tế phát triển đất nước ta từ sau thời kì đổi mới đã chứng tỏ những điều đặt ra trong vở kịch của Lưu Quang Vũ là đúng đắn và thể hiện khả năng dự báo của một cây bút giàu tâm huyết với đất nước. Tôi và chúng ta,mỗi người và mọi người đang gắn bó cùng nhau hướng tới mục tiêu tốt đẹp để cải thiện đời sống từng người, từng gia đình và tạo đà phát triển cho toàn xã hội. Cuộc sống rất cần những con người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung của tất cả chúng ta. Vở kịch không chỉ ca ngợi một cá nhân Hoàng Việt mà còn cổ vũ cả một tập thể đồng lòng chung sức đấu tranh chống lại các thế lực cố tình ngăn cản tiến trình công cuộc đổi mới .
Trong hoàn cảnh đất nước ta hiện nay, phấn đấu cho sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh”, thực hiện thắng lợi những mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội trên đất nước, càng cần những con người dũng cảm chính trực như vậy. Với ý nghĩa đó, vở kịch Tôi và chúng ta của Lưu Quang Vũ còn nguyên giá trị động viên cổ vũ cho những con người không ngần ngại cống hiến tâm huyết và sức lực cho đất nước.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 2Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 3
Bằng ngòi bút nhạy bén, sắc sảo, tư duy thời cuộc của mình, Lưu Quang Vũ đã viết nên vở kịch Tôi và chúng ta, một tác phẩm có tính thời sự, phản ánh một khía cạnh của quá trình sản xuất của xã hội đương thời. Khi mà đất nước đang nằm giữa làn ranh “tranh tối tranh sáng”, mọi suy nghĩ đổi mới đều sẽ trở thành ý tưởng điên rồ, táo bạo và vấp phải sự phản đối của những kẻ có tư duy lạc hậu, bo bo giữ mình đặc biệt là những con người có “hậu thuẫn” luôn nghênh ngang đắc chí.
Đoạn trích Tôivà chúng ta là cảnh thứ ba trong vở kịch lớn cùng tên, đánh dấu cuộc xung đột quan điểm đầu tiênvề việc thay đổi lề lối, phương thức hoạt động giữa hai tư tưởng trong một xí nghiệp nhà nước tên là Thắng Lợi. Một bên là tư tưởng bảo thủ, lạc hậu cứ khư khư ôm lấy những giáo điều, quy chế đề ra từ cấp trên, mà chẳng cần phải suy nghĩ vận động xem quy chế ấy có còn phù hợp hay không, ấy là Nguyễn Chính (Phó giám đốc) và Trương (Quản đốc phân xưởng). Hai con người này ỷ lại mình có được hậu thuẫn từ Trần Khắc (đại diện Thanh tra Bộ), nên thường ngang nhiên chống đối mệnh lệnh của cấp trên, thậm chí bỏ ngoài mắt những lời mà giám đốc Hoàng Việt nói, bởi họ coi đó là trái quy định là điên rồ.
Một bên còn lại là những đại diện cho tư tưởng cải tổ đổi mới toàn diện, bởi họ phát hiện ra những lỗ hổng, những quy định cứng nhắc đang kiềm cặp sự phát triển của doanh nghiệp, bức ép cuộc sống của những người công nhân, đấy là nguyên nhân của nhiều tiêu cực trong xí nghiệp, và đại diện phải kể đến Hoàng Việt (giám đốc), Lê Sơn (Kỹ sư), Thanh (kíp trưởng phân xưởng 1) và đông đảo các anh chị em công nhân khác.
Cảnh mở đầu đoạn trích là một cuộc họp của toàn bộ những người có chức vụ trong xí nghiệp, giám đốc Hoàng Việt tuyên bố lý do họp và khơi mở để cho Lê Sơn người đã đề ra kế hoạch cải tổ được phát biểu ý kiến của mình. Lê Sơn vốn là người nhút nhát, giỏi làm nhưng không giỏi nói, anh nhiều lần ấp úng nhưng được sự dẫn dắt của Hoàng Việt bằng những câu hỏi, cuối cùng anh cũng nói ra được cái ý tưởng mới mẻ của mình và có lẽ là hoàn toàn lạ lẫm đối với tất cả mọi người xung quanh.
Theo Lê Sơn “mức sản xuất của xí nghiệp ta có thể tăng… gấp 5 lần” và nếu mở rộng mặt hàng, nguyên liệu máy móc thì cần thêm rất nhiều công nhân “khoảng từ ba trăm đến năm trăm công nhân nữa” khác hẳn với con số trên dưới 200 công nhân của xí nghiệp hiện có. Đây phải nói là những con số mà trước giờ mọi người đều chưa từng nghĩ tới, và theo Trưởng phòng tổ chức lao động thì “chỉ tiêu biên chế” được cấp trên cho phép, và hiện nay chỉ còn 15 chỉ tiêu như vậy nữa, không thể thay đổi được theo lời của Lê Sơn.
Hoàng Việt truy hỏi nguồn cơn của cái “kế hoạch sản xuất” mà Trưởng phòng tổ chức lao động nhắc đến thì nhận được câu trả lời ấy là “cấp trên”, mà thực ra mọi người cũng mù mờ chẳng biết cái cấp trên đó có hình dáng mặt mũi như thế nào ngoài một tờ giấy chỉ đạo đưa xuống. Hoàng Việt đã nhanh chóng nhận ra được sự phi logic của vấn đề, mà theo lời anh nói là “các kế hoạch được đưa ra một cách ngược đời”, ai đời cấp trên vốn chẳng biết gì về tổ chức của cơ sở mà lại đi đề ra kế hoạch, việc lập kế hoạch vốn dĩ phải do tự cơ sở đưa lên rồi cấp trên xem xét và duyệt, mới hợp lý. Và Hoàng Việt đã nhanh chóng đưa ra quyết định “Các đồng chí, từ nay chúng ta sẽ chủ động đặt ra kế hoạch cho chính chúng ta”.
Dĩ nhiên câu nói ấy của Hoàng Việt đã nhanh chóng gây xôn xao trong mọi người, liên tiếp những khó khăn bắt đầu ập đến, đầu tiên là vấn đề “chỉ tiêu biên chế”, Hoàng Việt lập tức thay bằng cách tuyển thợ hợp đồng, nhưng tiếp theo là vấn đề tiền lương cho công nhân, anh cũng nhanh chóng giải quyết bằng cách tạm dừng việc xây dựng nhà khách, ứng tiền trả lương trước. Và vấn đề khá lớn ấy là việc tài vụ không chịu chi tiền dù đã có chữ ký của giám đốc, quả thực rất nan giải, Hoàng Việt đã mạnh dạn đứng ra chịu trách nhiệm nhưng Trưởng phòng tài vụ vẫn không chịu bởi một thứ có tên là “quy định” cứng nhắc, sáo rỗng. Cuối cùng Hoàng Việt đành cách chức người phụ nữ này và thay vào một người mới, ấy là cô Loan kế toán, để thực hiện quyết định của mình, một cách làm rất quyết liệt nhưng cần thiết vào lúc này, bởi ta không thể làm một việc gì ra trò nếu cứ có kẻ cứng đầu ngáng chân bằng những cái quy định và nguyên tắc “trời ơi”.
Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, lúc này Nguyễn Chính, kẻ cầm đầu của tư tưởng bảo thủ, lạc hậu mới bắt đầu lên tiếng, anh ta lên liên tục chất vấn Hoàng Việt bằng những câu hỏi khó, nhưng Hoàng Việt với cương vị của một giám đốc, lẽ dĩ nhiên anh chẳng dại gì đi tay không đến đây, anh đã chuẩn bị sẵn tất cả những lời giải thích hợp lý cho vị phó giám đốc này rồi. Anh chỉ ra những tiêu cực “người chăm kẻ lười đều được đối xử như nhau” và kết lại “xã hội chủ nghĩa gì mà lạ thế?”, cuối cùng đề ra nguyên tắc ai làm nhiều hưởng nhiều ai làm ít hưởng ít, nghe vậy anh chị em công nhân phấn khởi vỗ tay hoan hô rầm rộ. Bà Trưởng phòng tài vụ lại tiếp tục “nhai lại” nguyên tắc mà không biết chán, nhưng cuối cùng bằng lời kết của Hoàng Việt, nguyên tắc là do chúng ta đặt ra, bà ấy mới không nói thêm gì nữa.
Hoàng Việt rất đúng khi khẳng định với Nguyễn Chính một quy luật khách quan “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay đã thành vật cản. Phải tìm cách phá bỏ”, hẳn anh là người thấm nhuần các quy luật vận động của chủ nghĩa Mác- Lê Nin một cách sâu sắc. Nguyễn Chính vì không còn lý lẽ nào để nói lại Hoàng Việt nên tức tối rời đi và để lại một câu đầy thách thức: “Được rồi… đồng chí quá tự tin đấy! Được để rồi xem!”, có lẽ anh ta đang mong chờ một ngày Hoàng Việt thất bại để hả hê đây mà, nhưng điều này chắc khó có thể xảy ra. Phòng chỉ còn Lê Sơn và Hoàng Việt, hai người tâm sự với nhau, Lê Sơn có đôi lời nhắc nhở Hoàng Việt về Nguyễn Chính, nhưng Hoàng Việt chẳng hề nản chí, bởi anh vốn rất vững vàng, tự tin vào kế hoạch của mình và tin tưởng Lê Sơn, chàng kỹ sư tuy nhút nhát nhưng có một cái đầu cực nhanh nhạy.
Đoạn trích là khởi đầu của giông tố trong xí nghiệp nhà nước Thắng Lợi, ở đây có cuộc chiến tư tưởng giữa hai phe đối lập, một bên là phe bảo thủ, lạc hậu còn một bên là phe có tư tưởng đổi mới lại lề lối, phong cách làm việc, để hướng tới một doanh nghiệp có mức sản xuất cao hơn, công nhân có đủ chi tiêu đảm bảo cuộc sống. Và bước đầu của cuộc đấu tranh, phía bên có khao khát tư tưởng đổi mới, dám nghĩ dám làm đã tạm chiến thắng nhờ sự kiên định, thông minh của giám đốc Hoàng Việt, đây cũng là tiền đề cho những màn xung đột, đấu tranh quyết liệt hơn nữa còn chờ ở phía sau của vở kịch.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 2
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 1Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 2
Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch tài năng. Bài thơ Tiếng Việt của ông được nhiều người thuộc và yêu thích. Ông để lại khoảng 50 vở kịch, phần lớn đã được dàn dựng, thể hiện một bút pháp nghệ thuật sắc sảo, nhạy bén, đề cập đến hàng loạt vấn đề nóng bỏng của thời kì đổi mới những năm 80 của thế kỉ trước trên đất nước ta.
Vấn đề mới mẻ, xung đột dữ dội, tình huống kịch căng thẳng, lôi cuốn, lời thoại sắc sảo… là những nét đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật trong kịch của Lưu Quang Vũ. Vở kịch Tôi và chúng ta có chín cảnh, đoạn trích này là cảnh ba, phản ánh hiệp đầu giao phong giữa hai phái mới và cũ, tiến bộ và bảo thủ tại xí nghiệp Thắng Lợi.
Hoàng Việt – Giám đốc và Nguyễn Chính – Phó Giám đốc là hai đối thủ trong cuộc xung đột giữa hai phái mới và cũ này. Nguyễn Chính cho rằng muốn sản xuất thì phải theo đúng kế hoạch “cấp trên”, tuyển công nhân phải theo chỉ tiêu biên chế, bà Trưởng phòng Tài vụ cho biết “không có quỹ lương cho thợ hợp đồng”, muốn mua sắm nguyên liệu, vật tư “phải làm đúng những quy định”. Giám đốc Hoàng Việt tuyên bố: chúng ta phải chủ động đặt ra kế hoạch, phải tuyển thêm thợ hợp đồng, mức sản xuất của xí nghiệp sẽ tăng lên năm lần, lương mỗi công nhân sẽ tăng bốn lần. Phải dừng việc xây nhà khách để trả lương công nhân trong hai tháng, sau đó sẽ hoàn lại.
Công nhân sẽ không phải lo “bện thừng gia công kiếm thêm nữa”. Muốn tăng sản xuất thì phải đầu tư, trước tiên là con người, để chấm dứt tình trạng vô lí, bất công: “người chăm và kẻ lười được đối xử như nhau, người tài năng và kẻ dốt nát đều hưởng chung một mức quyền lợi, thậm chí có những kẻ không làm gì cả, chỉ ngồi phán thôi, lại được vị nể hơn những người đã vất vả cống hiến”. Những chức vô tích sự như chức Quản đốc Trương thì sẽ được bố trí làm nhiệm vụ khác, bởi lẽ: “Không có chức vụ nào quan trọng cả. Chỉ có hiệu quả công việc là quan trọng”. Ai làm được nhiều sản phẩm sẽ được hưởng lương cao, ai làm tồi sẽ bị phạt bằng tiền.
Muốn phát triển sản xuất thì cần mua thêm máy móc, nhiên liệu, nguyên liệu, phải sửa chữa các máy móc hỏng. Phải dùng séc, tiền mặt để mua sắm. Giám đốc lệnh cho phòng Tài vụ phải cấp tiền cho tổ sửa chữa mua sắm và khẳng định: “Tôi chịu trách nhiệm”. Nhưng bà trưởng phòng tài vụ không chịu chi. Phó giám đốc Nguyễn Chính đã phê phán Giám đốc: “Đồng chí bất chấp các quy định nghiêm ngặt của cả một hệ thống các cơ quan tài chính, ngân hàng, lao động, vật tư…”
Phái bảo thủ Nguyễn Chính chống trả rất quyết liệt. Có lúc là bằng nguyên tắc, nghị quyết Đảng ủy, có khi lại lên giọng đạo đức ân tình: “Cái cơ chế mà đồng chí mạt sát ấy tồn tại bền vững mấy chục năm nay. Nhờ nó mà chúng ta hôm nay có chủ nghĩa xã hội như ngày hôm nay, hạt gạo đồng chí ăn, cái áo đồng chí mặc và cả chính con người đồng chí nữa đã được rèn luyện và trưởng thành trong cơ chế ấy. Đừng vội phủ nhận”.
Quan điểm của Hoàng Việt rất mới mẻ tiến bộ, rất biện chứng. Anh đã chỉ cho Nguyễn Chính và phe bảo thủ biết: “Sự vật không đứng yên, cuộc sống không đứng yên một chỗ, có cái hôm qua đúng, hôm nay nó là vật cản. Phải tìm cách phá bỏ. ” Qua đó, ta thấy tư tưởng bảo thủ, cơ chế bao cấp quan liêu đã bị tư tường đổi mới giáng cho những đòn mạnh mẽ, quyết liệt. Nhưng thế lực bảo thủ đâu đã chịu đầu hàng. Nguyễn Chính, một kẻ vô cùng xảo quyệt “từng đánh đổ bốn đời Giám đốc”. Hắn thuộc loại người nham hiểm, ghê gớm, “loại người nếu bắt tay mình, mình phải xem lại tay kia còn đủ năm ngón không?’. Vả lại sau lưng hắn vẫn còn có bao thế lực, đó là Trần Khắc, đại diện Ban Thanh tra của Bộ!
Thật đáng buồn cho một cơ chế bao cấp bảo thủ “làm giả thì được huân chương, còn làm thật thì lại… no đòn!” Cái tôi mà Giám đốc Hoàng Việt nêu lên là một thái độ dứt khoát, rõ ràng: tôi làm, tôi chịu trách nhiệm; “chúng ta” là một tư tưởng lớn: chúng ta hăng say lao động, vì sự ấm no hạnh phúc của chúng ta, vì sự giàu đẹp của đất nước.
Tôi và chúng ta là đổi mới. Hơn 20 năm sau, trước sự đổi mới tốt đẹp của đất nước, ta càng thấy rõ vở kịch của Lưu Quang Vũ là một vở kịch hay và sâu sắc.
Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” số 1
Bằng việc xây dựng tình huống kịch hấp dẫn, các nhân vật có tính cách rõ nét, Lưu Quang Vũ đã khắc họa thành công cuộc đấu tranh cũ-mới để lại nhiều bài học cho bạn đọc.
Đăng bởi: Hiếu Sóc
Từ khoá: 6 Bài văn phân tích vở kịch “Tôi và chúng ta” của Lưu Quang Vũ
Văn Khấn Khai Trương, Mở Hàng Đầu Năm 2023 Bài Cúng Khai Trương Cửa Hàng, Công Ty Đầu Năm Quý Mão 2023
Mâm cỗ cúng khai trương đầu năm 2023
Để công việc cả năm làm ăn xuôi chèo mát mái, buôn bán phát tài, đầu xuôi đuôi lọt thì các công ty, doanh nghiệp, cửa hàng, quán ăn, quán cà phê thường sẽ chọn ngày đẹp khai trương, mở hàng đầu năm 2023. Sau đó, sẽ chuẩn bị lễ cúng mở hàng đầu năm thật chu đáo:
Tuổi đẹp mở hàng khai trương năm 2023
Tuổi Canh Tuất 1970: chọn người mở hàng tuổi 1998 Mậu Dần.
Tuổi Tân Hợi 1971: chọn tuổi Mậu Thân 1991 Tân Mùi.
Tuổi Nhâm Tý 1972: chọn người mở hàng tuổi 1997 Đinh Sửu.
Tuổi Quý Sửu 1973: chọn người mở hàng tuổi Quý Hợi 1983.
Tuổi Giáp Dần 1974: chọn tuổi 1982 Nhâm Tuất và 1962 Nhâm Dần.
Tuổi Ất Mão 1975: chọn tuổi 1970 Canh Tuất và 1982 Nhâm Tuất.
Tuổi Bính Thìn 1976: chọn tuổi 1971 Tân Hợi và 1968 Mậu Thân.
Tuổi Đinh Tỵ 1977: chọn người mở hàng tuổi 1968 Mậu Thân.
Tuổi Mậu Ngọ 1978: chọn người mở hàng tuổi 1998 Mậu Dần.
Tuổi Kỷ Mùi 1979: chọn người mở hàng tuổi 1991 Tân Mùi.
Tuổi Canh Thân 1980: chọn người mở hàng tuổi 1975 Ất Mão.
Tuổi Tân Dậu 1981: chọn người mở hàng tuổi 1983 Quý Hợi.
Tuổi Nhâm Tuất 1982: chọn người mở hàng tuổi 1963 Quý Mão.
Tuổi Quý Hợi 1983: chọn người mở hàng tuổi 1991 Tân Mùi.
Tuổi Giáp Tý 1984: chọn người mở hàng tuổi 1971 Tân Hợi.
Tuổi Ất Sửu 1985: chọn người mở hàng tuổi 1998 Mậu Dần.
Tuổi Bính Dần 1986: chọn người tuổi 1998 Mậu Dần, 1991 Tân Mùi và 1961 Tân Sửu.
Tuổi Đinh Mão 1987: chọn người tuổi 2006 Bính Tuất và 1998 Mậu Dần.
Tuổi Mậu Thìn 1988: chọn người tuổi 1983 Quý Hợi và 1975 Ất Mão.
Tuổi Kỷ Tỵ 1989: chọn người tuổi 2004 Giáp Thân và 1982 Nhâm Tuất.
Mâm cúng khai trương đầu năm Quý Mão 2023
1 con gà (nếu có), hoặc một khoanh giò hay 2 lạng thịt nạc vai luộc.
1 đĩa xôi hoặc bánh chưng.
1 đĩa muối gạo.
1 bát nước.
Nửa lít rượu trắng.
Bao thuốc, lạng chè.
1 bộ quần áo quan thần linh, mũ, hia tất cả màu đỏ, kiếm trắng.
1 đinh vàng hoa.
5 lễ vàng tiền.
5 cái oản đỏ.
5 lá trầu, năm quả cau.
5 quả tròn.
9 bông hoa hồng đỏ.
Văn khấn khai trương cửa hàng, công ty đầu năm 2023Nam mô a di Đà Phật! (3 lần).
Kính lạy:
Tín chủ (chúng) con là: ……………………………………….
Tuổi: ………………………………………………………………
Hiện ở tại: ……………………………………………………….
Hôm nay là ngày …. tháng … năm …, tín chủ con thành tâm sắm sửa lễ, quả cau lá trầu, hương hoa trà quả, thắp nén tâm hương dâng lên trước án, lòng thành tâu rằng: tín chủ con xây cất (hoặc thuê được) một ngôi hàng ở tại xứ này (nêu rõ địa chỉ) ….. (nếu là cơ quan, công xưởng thì khấn là tín chủ con là con là Giám đốc hay Thủ trưởng cùng toàn thể công ty), nay muốn khai trương khởi đầu việc kinh doanh (hoặc sản xuất) phục vụ nhân sinh, phục vụ sinh hoạt. Do đó chúng con chọn được ngày lành tháng tốt sắm sính lễ vật cáo yết Tôn thần dâng cùng Bách linh ……. cúi mong soi xét.
Tín chủ lại mời các vị Tiền chủ, Hậu chủ cùng chư Hương linh y thảo phụ mộc ngụ trong khu vực này, xin hãy tới đây thụ hưởng lễ vật, phù trì cho tín chủ con làm ăn buôn bán gặp nhiều may mắn.
Advertisement
Chúng con lễ bạc tâm thành, trước án kính lễ, cúi xin được phù hộ độ trì.
Nam mô a di Đà Phật! (3 lần).
Lưu ý: Nếu ghi ra giấy, thì lúc đốt giấy vàng bạc hãy hóa luôn tờ giấy vái cúng chung với giấy vàng bạc.
Lưu ý khi thực hiện lễ cúng khai trương đầu năm 2023
Nếu không có ban thờ thì mâm lễ cúng khai trương nên được đặt ở ngoài sân hoặc trước cửa chính của công ty. Hướng đặt như thế nào còn tùy thuộc vào tuổi của chủ doanh nghiệp, cửa hàng…
Trước khi tiến hành lễ cúng khai trương đầu năm, bạn nên liệt kê danh sách các món đồ lễ cần mua để tránh thiếu sót.
Ăn mặc chỉnh tề, nghiêm trang khi thực hiện lễ cúng.
Nên viết (hoặc in) bài văn cúng ra giấy, sau khi cúng xong thì hóa luôn tờ giấy này cùng với vàng mã.
Văn Mẫu Lớp 11: Phân Tích Bài Ca Ngất Ngưởng Của Nguyễn Công Trứ Dàn Ý &Amp; 12 Bài Văn Mẫu Lớp 11
Dàn ý phân tích Bài ca ngất ngưởng Dàn ý chi tiết số 1
I. Mở bài
– Đôi nét về tác giả Nguyễn Công Trứ: một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc
– Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ
II. Thân bài
1. Cảm hứng chủ đạo
– “ ngất ngưởng” : thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả.
⇒ tư thế, thái độ cách sống ngang tàng, vượt thế tục của con người.
⇒ Phong cách sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, Tác giả có ý thức rất rõ về tài năng và bản lĩnh của mình, kể cả khi làm quan, ra vào nơi triều đình và khi đã nghỉ hưu.
2. 6 câu đầu
– “ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều là phận sự của tác giả ⇒ Tuyên ngôn về chí làm trai của nhà thơ.
– “Ông Hi Văn…vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng
– Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
+ Tài năng: Giỏi văn chương (khi thủ khoa), Tài dùng binh (thao lược)
⇒ Tài năng lỗi lạc xuất chúng: văn võ song toàn
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người:Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
⇒ Tự hào mình là một người tài năng lỗi lạc, danh vị vẻ vang văn vẻ toàn tài.
⇒ 6 câu thơ đầu là lời từ thuật của nhà thơ lúc làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng phóng khoáng khác đời ngạo nghễ của một người có khả năng xuất chúng
3. 10 câu tiếp
– Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
⇒ Sở thích kì lạ, khác thường, thậm chí có phần bất cần và ngất ngưởng
+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
⇒ Cá tính người nghệ sĩ mong muốn sống theo cách riêng
– Quan niệm sống:
+ “ Được mất … ngọn đông phong”: Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên .
+ “ Không …tục”: không phải là Phật, không phải là tiên, không vướng tục , sống thoát tục ⇒ sống không giống ai, sống ngất ngưởng
⇒ Quan niệm sống kì lạ khác thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả
4. 3 câu cuối
+ “ Chẳng trái Nhạc.. Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố , ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
⇒ khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang bậc danh tướng. Tự khẳng định mình là bề tôi trung thành.
+ “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”: vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
⇒ Tuyên ngôn khẳng định cá tính, sự mong muốn vượt ngoài quan điểm đạo đức Nho gia thông thường. Đối với ông, ngất ngưởng phải có thực danh và thực tài
5. Đặc sắc nghệ thuật:
– Vận dụng thành công thể hát
– Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng
– Sử dụng điển tích, điển cố
III. Kết bài
– Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng
– Liên hệ trình bày suy nghĩ bản thân
Dàn ý chi tiết số 21. Mở bài
– Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Nguyễn Công Trứ (đặc điểm con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác,…)
– Giới thiệu những nét khái quát về bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” (hoàn cảnh ra đời, cảm hứng chủ đạo, khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ,…)
– Giới thiệu khái quát bài học được rút ra từ tác phẩm.
2. Thân bài
a. Phân tích bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”
* Cảm hứng chủ đạo của bài thơ – “ngất ngưởng”
– Xuất hiện 4 lần trong toàn bộ tác phẩm
– Là một từ láy giàu ý nghĩa:
+ Xét về nghĩa đen: tả độ cao ở trạng thái không vững, chực đổ nhưng không đổ.
+ Trong bài thơ, là lối sống, là thái độ sống của Nguyễn Công Trứ.
* “Ngất ngưởng” khi ở chốn làm quan
– Câu thơ chữ Hán mở đầu đã khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo, đây chính là lí tưởng chung của những người đi theo con đường Nho học: trong vòng trời đất không có việc gì là không phải việc của mình.
– Bằng việc sử dụng hàng loạt từ ngữ Hán Việt cùng biện pháp liệt kê, Nguyễn Công Trứ đã khéo léo điểm lại hàng loạt các chức quan, danh vị mà mình đã từng đảm nhiệm, điều đó cho thấy ông là người văn võ song toàn.
→ Việc khoe tài năng, danh vị ấy của Nguyễn Công Trứ không phải là tự cao, tự đại, khoe khoang hợm hĩnh mà nó dựa trên tài năng và sự nghiệp của chính bản thân ông, là cái vỏ bên ngoài để giấu sâu bên trong là một cái tôi ý thức rõ về tài năng, danh vị của bản thân mình
* “Ngất ngưởng” khi đã cáo quan về hưu
– Lối sống khác đời, khác người và có phần trái khoáy:
+ Con bò vàng đã được nhà thơ “trang sức” cho nó bằng đạc ngựa.
+ Vãn cảnh chùa còn mang theo một cô gái đẹp đến nước bụt cũng phải chào thua.
– Có quan niệm sống rõ ràng, không quan tâm đến chuyện được – mất, khen – chê: Với ông, giữa được và mất, khen và chê không biết cái nào hơn cái nào
– Ông đã lựa chọn cho mình một lối sống tự do, được thỏa chí làm những việc mình muốn: Coi trọng hiện tại, hiện thế và biết thưởng thức những thú vui có trong cuộc đời như thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình.
→ Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ đã vượt ra ngoài vòng cương tỏa nhưng ông vẫn luôn là một bề tôi hết mực trung thành.
b. Những bài học rút ra cho bản thân từ bài thơ “Bài ca ngất ngưởng”
– Cần ý thức được vai trò, vị trí của bản thân trong cuộc sống và ý thức rõ ràng về tài năng của chính mình
– Có một quan niệm sống, lí tưởng sống đúng đắn, phải biết vượt ra khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt để sống một cuộc sống giàu ý nghĩa.
– Không được sống nhỏ nhen, ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến chuyện được, mất, khen, chê của mình mà quên đi những người xung quanh.
3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nội dung, nghệ thuật của bài thơ, bài học rút ra cho bản thân và nêu cảm nghĩ của bản thân.
Dàn ý số 3a) Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm
– Nguyễn Công Trứ là một nhân vật lịch sử nổi tiếng in đậm dấu ấn không chỉ trong văn chương mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, thơ văn ông phản ánh nhân sinh và thế sự sâu sắc.
– Bài ca ngất ngưởng là một trong số những bài hát nói tiêu biểu thể hiện tài năng, chí khí và ý thức cá nhân của Nguyễn Công Trứ.
b) Thân bài
* Cảm hứng chủ đạo
– “ngất ngưởng”: thế cao chênh vênh, không vững, nghiêng ngả.
* Luận điểm 1: Quan điểm sống ngất ngưởng trên con đường công danh, sự nghiệp (6 câu đầu)
– “Ông Hi Văn… vào lồng”: Coi nhập thế là việc làm trói buộc nhưng đó cũng là điều kiện để bộc lộ tài năng
– Nêu những việc mình đã làm ở chốn quan trường và tài năng của mình:
+ Tài năng: giỏi văn chương (khi thủ khoa), tài dùng binh (thao lược)
+ Khoe danh vị, xã hội hơn người: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên
* Luận điểm 2: Quan điểm sống ngất ngưởng trong lối sống, suy nghĩ (10 câu tiếp)
– Cách sống theo ý chí và sở thích cá nhân:
+ Cưỡi bò đeo đạc ngựa.
+ Đi chùa có gót tiên theo sau.
+ Bụt cũng nực cười: thể hiện hành động của tác giả là những hành động khác thường, ngược đời, đối nghịch với quan điểm của các nhà nho phong kiến.
– Quan niệm sống:
+ “Được mất… ngọn đông phong” : Tự tin đặt mình sánh với “thái thượng”, tức sống ung dung tự tại, không quan tâm đến chuyện khen chê được mất của thế gian
+ “Khi ca… khi tùng” : tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui vẻ triền miên.
* Luận điểm 3: Lời khẳng định về sự ngất ngưởng vô địch (3 câu cuối)
– “Chẳng trái Nhạc… Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Sử dụng điển cố, ví mình sánh ngang với những người nổi tiếng có sự nghiệp hiển hách như Trái Tuân, Hàn Kì, Phú Bật…
– “Trong triều ai ngất ngưởng như ông” : vừa hỏi vừa khẳng định vị trí đầu triều về cách sống “ngất ngưởng”
* Đặc sắc nghệ thuật:
– Vận dụng thành công thể hát
– Giọng điệu thơ hóm hỉnh, trào phúng
– Sử dụng điển tích, điển cố
c) Kết bài
– Khẳng định những nét tiêu biểu nhất về nội dung và nghệ thuật của Bài ca ngất ngưởng
– Trình bày suy nghĩ của bản thân về bài thơ.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 1Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta trong nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, có tài kinh bang tế thế, lưu danh sử sách. Lúc sống cuộc đời một hàn sĩ, lúc cầm quân chinh chiến, lúc làm lính thú, lúc làm đại quan. Vinh nhục đã từng, thăng trầm đã trải, nhưng lúc nào ông cũng hăm hở chí nam nhi, sòng phẳng với nợ tang bồng, sống vì một khát vọng phi thường:
Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, cho thấy một cá tính sáng tạo rất độc đáo được thể hiện tuyệt đẹp qua bài phú Nôm “Hàn nho phong vị phủ”, và trên 60 bài thơ hát nói cực kì tài hoa. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những bài thơ hát nối kiệt tác trong nền thơ ca dân tộc. Bài hát nói này có hai khổ dôi tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hắt nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.
Nguyễn Công Trứ về chí sĩ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với Chiểu Nguyễn. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi đã về trí sĩ tại quê nhà. Bài thơ vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời.
“Ngất ngưởng” nghĩa là không vững, ở chỗ cheo leo dễ đổ, dễ rơi (Từ điển tiếng Việt). Trong bài thơ này nên hiểu “ngất ngưởng” là một con người khác đời, một cách sống khác đời và bất chấp mọi người. Và ngất ngưởng đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành bài ca, thành điệu tâm hồn với tất cả niềm tự hào và sự say sưa hiếm thấy.
Khổ đầu cất cao một tiếng nói, một lời tuyên ngôn của đấng nam nhi, đấng tài trai. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” — mọi việc trong vũ trụ chằng có việc nào không là phận sự của ta. Một cách nói phủ định để khẳng định tâm thế của một nhà nho chân chính. Mà đâu chỉ có một lần? Lúc thì ông viết: “Vũ trụ giai ngô phận sự” (Những việc trong vũ trụ đểu thuộc phận sự của ta ~-Nợ tang bồng; “Vũ trụ chức phận nội” (Việc trong vũ trụ là chức phận của ta – Gánh trung hiếu). Có cái tâm thế ấy, chính vì “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài năng lớn, nhiều tài năng. Chữ “lồng” trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. “Vào lồng là vào khuôn phép vua chúa cái nơi chật hẹp, tù túng trái với cái tài đội trời đạp đất của ông” (Lê Trí Viễn). Có người lại giải thích: “lồng là trời đất, vũ trụ”. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: “Đã mang tiếng ở trong trời đất”, hoặc “Chẳng công danh chi đứng giữa trần hoàn” (trần hoàn: cõi đời, cõi trần). Cách hiểu thứ hai hợp lí hơn, vì có vào lồng vũ trụ thì mới có ý chí đấu tranh, như ông nói:
Sau khi đã xưng danh, nhà thơ tự khẳng định tâm thế mình, “tài bộ” mình, chí nam nhi của mình mang tầm vóc vũ trụ.
Ông Hi Văn là một người có thực tài và thực danh. Học hành thi cử, ông dám thí thố với thiên hạ: “Cái nợ cầm thư phải trả xong”. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ Thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan võ, giữ chức Tham tán; làm quan văn, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Tiếng tăm lẫy lừng “Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ” (“Chí anh hùng”). Đứng trên đỉnh cao danh vọng bời có văn võ toàn tài, bởi có “gồm thao lược”, và chính lúc đó ông Hi Văn mới trở thành “tay ngất ngưởng”, một con người hơn đời và hơn thiên hạ. Câu thơ với cách ngắt nhịp (3-3-4-3-3-2), ba lần điệp lại chữ “khi” đã tạo nên một giọng điệu hào hùng, thể hiện một cốt cách phi thường, một chí khí vô cùng mạnh mẽ:
Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một kẻ sĩ có tài kinh bang tế thế. Thời loạn thì xông pha trận mạc, giữ trọng trách trước ba quân: “Bình Tây cờ Đại tướng”. Thời bình thì giúp nước giúp vua, làm “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã lên tới đỉnh cao nhất danh vọng. Ông đã từng nói: “Lúc làm Đại tướng, ta chẳng lấy thế làm vinh, lúc làm lính thú, ta cũng chẳng lấy thế làm nhục”. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về chí sĩ ở quê nhà, năm đó, ông vừa tròn 70 tuổi (1848):
Trở lại đời thường, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược đời, hình như để giễu đời với tất cả sự ngất ngưởng. Vị đại quan thuở nào “ngựa ngựa xe xe” nay chỉ cưỡi bò vàng và cho bò đeo đạc ngựa. Cả người và bò vàng đều ngất ngưởng. Như một sự thách đố với “miệng thế”. Cho đến nay dân gian vẫn cười và truyền tụng bài thơ đề vào chiếc mo cau của ông Hi Văn thuở nào:
Tám câu tiếp theo trong hai khổ dôi nói lên một cách sống ngất ngưởng. Xưa kia là một vị đại thần, một danh tướng — “tay kiếm cung” — thế mà nay sống cuộc đời hiền lành, bình dị “nên dạng từ bi”. Đi vãn cảnh chùa, đi thăm thú những danh lam thắng cảnh “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”, ông đã mang theo “một đôi dì”, nhũng nàng hầu xinh đẹp với “gót tiên đủng đỉnh”…
Ông đã sống hết mình và chơi cũng hết mình. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là một tứ thơ độc đáo. Câu thơ tự trào gợi ít nhiều hóm hỉnh. Bụt cười, hay thiên hạ cười? Hay ông Hi Văn tự cười mình? Đã thoát vòng danh lợi rồi, thì chuyện “được, mất” là lẽ đời, như tích “Thất mã tái ông” mà thôi, cũng chẳng bận tâm làm gì! Chuyện “khen, chê” của thiên hạ, xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông (xuân) phơi phới thổi qua. Có bản lĩnh, có tự tin về tài đức của mình mới có thái độ phủ định như thế, dám sống vượt lên trên mọi thế tục. Có biết Nguyễn Công Trứ là một nhà nho được đào luyện nơi cửa Khổng sân Trình, một vị đại quan của triều Nguyễn thì mới thấy được một phần nào cá tính cốt cách đời, một nhân cách khác đời, rất phóng túng, phong tình và tài tình hiếm thấy của ông. Không quan tâm đến chuyện “được, mất”, bỏ ngoài tai mọi lời thị phi, khen chê, ông đã sống một cách an nhiên, hồn nhiên, vô cùng thảnh thơi, vui thú. Tuy ngất ngưởng mà trong sạch, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt hay trong “Bài ca ngất ngưởng”:
Cách ngắt nhịp 2, nghệ thuật hòa thanh (bằng, trắc), lối nhấn, lối diễn tả trùng điệp (khi… không..,) đã tạo cho câu thơ phong phú về nhạc điệu, biểu lộ một phong thái ung dung, yêu đời, ham sống, thanh cao chẳng vướng chút bụi trần. Có đọc to và hát lên, có lắng nghe tiếng đàn đáy, nhịp phách, tiếng trống chầu, ta mới cảm được chất thơ, chất nhạc hoà quyện trong những vần thơ đẹp như thế! Đúng là ngất ngưởng mà tài hoa, tài tử.
Khổ xếp của bài hát nói chỉ có 3 câu. Câu cuối gọi là câu keo chỉ có 6 từ. Nên ghi đúng như văn bản ‘Tuyển tập thơ ca trù” – NXB Văn học 1987 mới đúng thi pháp:
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một danh thần thuỷ chung, trọn vẹn “nghĩa vua tôi”. Ông đã viết trong bài “Nợ tang bồng”:
Tài năng, công danh mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân có kém gì Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những anh tài đời Hán, đời Tống bên Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, phương Bắc và phương Nam, tác giả đã kết thúc bài hát nói bằng một tiếng “ông” đĩnh đạc, hào hùng: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”. Cái bản ngã phi thường của nhà thơ đã được phô bày cực độ.
Tóm lại, với Nguyễn Công Trứ, thì phải có thực tài, thực danh, phải “vẹn đạo vua tôi” mới trở thành “tay ngất ngưởng”, “ông ngất ngưởng” được. Và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ thể hiện chất tài hoa, tài tử, không ô trọc, không vướng tục”, cũng không thoát li. Ngất ngưởng thế mới sang trọng.
Cái nhan đề, thi đề “Bài ca ngất ngưởng” của ông Hi Văn rất độc đáo. Cách bộc lộ bản ngã của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỉ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ hát nói, thơ trường thiên đậm đặc chất “ngông”. Một đằng ngất ngưởng mà tài danh, một đằng ngông mà chán đời và lãng mạn.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Các câu thơ chữ Hán đem lại sự bề thế, uyên bác. Chất thơ, chất nhạc phối hợp hài hòa, lôi cuốn, hấp dẫn.
Trong nền thi ca cổ điển Việt nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những nhà thơ cự phách để lại một số bài hát nói tuyệt tác. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, chất tài tử hòa nhập với chí anh hùng, nợ tang bồng, chí nam nhi. Đó là phong cách nghệ thuật, là cốt cách, là bản sắc thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ. “Bài ca ngất ngưởng” đích thực là “Bài ca từ đáy lòng” của ông Hi Văn cho ta nhiều thú vị.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 2Mỗi con người tạo nên một tính cách, mỗi nhà văn cũng có một phong cách riêng cho mình nhưng đặc biệt là có những tính cách nổi bật khiến người ta nhắc đến là nhớ ngay đến người đó. Và Nguyễn Công Trứ có một tính cách đặc biệt như thế, ông được biết đến với một cá tính đặc biệt, mạnh mẽ “ngất ngưởng”. chính cá tính ấy làm cho người ta nhớ đến ông nhiều hơn. Đặc biệt cá tính của ông được thể hiện rất rõ trong bài thơ bài ca ngất ngưởng.
Bài ca ngất ngưởng giống như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời, tài năng, tính cách của ông. Đó là một tài năng lớn cũng là một tính cách lớn vượt qua khuôn khổ của thời trung đại cũng như nho giáo. Ông sinh ra trên mảnh đất Nghệ An, cùng thời với ông cũng có rất nhiều người tài giỏi tuy nhiên người ta lại nhớ đến ông. Phải chăng do tính cách khá đặc biệt của ông- một sự ngất ngưởng và lối sống chân thật ấy đã làm người ta nhớ đến ông nhiều hơn?.
Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời đó có vinh hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:
Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan của ông. Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm của từ ” ngất ngưởng”, ngất ngưởng là từ đồng nghĩa với ngất nghểu có thể hiểu là một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình phải chăng là cả một ẩn ý?.
Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Cùng với bản tuyên ngôn về chí làm trai ” chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể” thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một bản tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của ông
” Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này không có việc gì không phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý thức tầm quan trọng cá nhân của ông và sự nhiệt huyết trong cuộc đời của ông.
Sau đó ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:
Đối với ông mà nói làm quan như ” vào lồng”, câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi việc làm quan giống như bị nhốt trong lòng. Bởi vì với tính cách ngông nghênh cùng ý chí ngút trời ” vẫy vùng trong trời đất” những đạo lí Tam cương ngũ thường trở thành khuôn phép gò bó tính cách của ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ông, đó là một cách xưng hô độc đáo. Dẫu biết làm quan là bó buộc mất tự do nhưng ông vẫn làm vì nhờ đó ông thể hiện được tài năng cũng như hoài bão của mình. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể hiện mình như một giá trị hiển nhiên giữa đời mà không thể phủ nhận được.
Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như ” thủ khoa”, “tham tán”, ” tổng đốc đông” ,” bình tây đại tướng” khi lại ” Phủ doãn thừa thiên”. Có thể nói cuộc đời làm quan của ông hiển đạt vô cùng tất thảy đều là những quan to. Tuy nhiên ở ngoài đời thực thì ông có bị giáng chức xuống làm một anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói vô cùng nổi tiếng đó là : “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. vì thế cho nên dù làm ở cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp nước nhà.
Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là một con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật khác bình thường:
Chia tay chốn quan trường nhà thơ về với quê hương thật đúng là ” ngất ngưởng”. Người ta về quan tiệc tùng linh đình về trong võng lọng kiệu đẹp, hay cùng lắm là con ngựa gầy nhưng Nguyễn Công trứ thì lại khác. Về quê chẳng tiệc chia tay, chẳng người đưa tiễn, chẳng vọng lọng kiệu ngựa mà chỉ một mình với con bò vàng đủng đỉnh. Bò mà đeo đạc ngựa thật sự chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có mà thôi!.
Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa mà tự cười nhạo mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cô ả đào. Theo sau. Như thế là thất kinh nhưng bụt không tức giận mà phải bật cười vì tích cách của vị quan già ngông nghênh ấy.
Những câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:
Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen chê không là chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách của mình. Cuộc đời này còn gì vui hơn hạnh phúc hơn khi được sống đúng là chính mình. Mấy ai được sống là chính mình còn Nguyễn Công Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trong thú vui tuổi già đó là ca trù không vướng tục. Từ “khi” được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự lặp lại của những thú vui ấy. Ca trù, rượu nóng ông say sưa trong hơi men và điệu các điệu tùng. Đúng là một cuộc sống đầy âm nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên theo phật cứ sống theo cách của chính ông mà thôi. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài nếu như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai câu sau lại đầy ắp tiếng nhạc.
Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng ngày xưa:
Trái Tuân thời Hán và ba người thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những danh tướng có sự nghiệp hiển hách. Kết thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao mà mình đã đạt được trước khi về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên điệp khúc ngất ngưởng của mình, ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui khác người. Thú vui ấy chỉ có Nguyễn Công Trứ mới có , ông ngất ngưởng như vậy đấy.
Như vậy có thể thấy Nguyễn Công Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý thức được tài năng cũng như vị trí của mình. Ông sống mà không cần quan tâm đến người ta nói gì về mình. Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết sự ngất ngưởng của nhà thơ. Bài thơ không chỉ ngất ngưởng ở nội dung mà cả giọng điệu cũng góp phần làm nên bài thơ này.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 3Nguyễn Công Trứ là một nhà thơ tài năng, văn võ song toàn. Không chỉ vậy, ông còn có đóng góp đặc biệt cho sự phát triển của thể loại hát nói. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những tác phẩm như thế. Sáng tác vào năm 1848, khi Nguyễn Công Trứ cáo quan về ở ẩn, bài thơ thể hiện quan niệm sống ngất ngưởng độc đáo đồng thời định hình phong cách sống “ Nhà nho tài tử” đầy tính nhân văn của tác giả.
Bài thơ đã nêu lên quan niệm mang tính triết lý về lối sống ngất ngưởng. “Ngất ngưởng” theo nghĩa đen là từ dùng để chỉ người hoặc vật ở tư thế vượt trội hơn so với xung quanh nhưng không vững chắc, ngả nghiêng như trực ngã, dễ tạo ra cảm giác lo lắng, khó chịu. Tuy nhiên, với Nguyễn Công Trứ, “ngất ngưởng” là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ. ‘Ngất ngưởng” với ông là lối sống, thái độ sống vượt lên trên những khuôn mẫu, chuẩn mực thường thấy, hướng đến cuộc sống tự do, phóng khoáng mà không kém phần cao sang. Đó là lối sống khẳng định cái “tôi”, khẳng định cá tính ngông nghênh của một con người tài năng.
Trước hết, lối sống “ngất ngưởng” được tác giả thể hiện khi hành đạo. Câu thơ đầu tiên mở ra bằng quan niệm về bổn phận của kẻ sĩ:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự”.
Với Nguyễn Công Trứ, ông coi công danh là lẽ sống. Cách sử dụng từ Hán việt kết hợp với giọng điệu trang trọng đã bộc lộ quan điểm sống tích cực, khẳng định bổn phận, trách nhiệm của kẻ sĩ. Không chỉ vậy, nhà thơ còn thể hiện cái tôi đầy ngất ngưởng:
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”.
Lời tự xưng “Hi Văn” đặt giữa câu thơ bộc lộ cái tôi cá tính đầy bản lĩnh. Xưa nay trong văn học trung đại, đưa cái tôi cá nhân vào thơ đã hiếm, tự tin khẳng định tài năng cá nhân qua từ “tài bộ” lại càng hiếm hơn. Hình ảnh ẩn dụ “vào lồng” thể hiện sự bó buộc, giam hãm, mất tự do. Không chỉ ý thức về tài năng, nhà thơ còn tự tin thể hiện điều đó qua những việc làm cụ thể:
Điệp từ “khi” kết hợp với thủ pháp liệt kê tạo nhịp điệu dồn dập, hứng khởi. Lần lượt từng học vị hay những chiến tích vang dội được nêu ra đã góp phần vẽ nên chân dung của một con người tài năng trên nhiều lĩnh vực. Qua sáu câu thơ đầu, nhà thơ hiện lên với một quan niệm sống đầy cá tính, bản lĩnh mà nền tảng là ý thức, trách nhiệm và tài năng hơn người.
Bên cạnh đó, lối sống “ngất ngưởng” còn được ông thể hiện khi cáo quan về quê. Với ông, cáo quan về quê là một sự kiện trọng đại:
“Đô môn giải tổ chi niên”.
Khi nghỉ hưu, người đời thường cưỡi ngựa, còn ông lại cưỡi bò, vừa đeo đạc, vừa cao ngạo với đời. Từ giã chốn kinh kì, ông ngao du sơn thủy, trút sạch bụi trần. Nhà thơ đã tự phác họa chân dung mình một cách đầy hài hước:
Đó đều là những việc làm khác người, khẳng định phong cách sống độc đáo. Bản lĩnh Nguyễn Công Trứ được thể hiện ngay trong thái độ sống của ông:
Hình ảnh “người thái thượng”, “ngọn đông phong” kết hợp với phép đối “được-mất”, “khen-chê”thể hiện thái độ sống bỏ qua mọi lời đàm tiếu, coi thường được, mất. Phép liệt kê với điệp từ “khi”, “không” tạo nhịp ngắt linh hoạt. Ông không tu theo Tiên, nhưng cũng không vướng tục. Tóm lại, Nguyễn Công Trứ tiếp tục làm rõ bản lĩnh, cá tính qua hình ảnh một con người không đạo mạo, nghiêm nghị, không rơi vào vòng phàm tục.
Cuối cùng, lối sống ngất ngưởng được thể hiện khi ông tổng kết về cuộc đời mình:
Nguyễn Công Trứ hoàn toàn tự tin khi đã hoàn thành 2 nhiệm vụ quan trọng nhất của kẻ sĩ: cống hiến tài trí, vẹn đạo vua tôi. Nhà thơ tự đề cao mình qua phép so sánh đầy ngạo nghễ. Với cổ nhân, ông ngang hàng Trái, Nhạc, Hàn, Phú. Còn với người đương thời, trong triều, ông là duy nhất. Nhà thơ đã bộc lộ thái độ cao ngạo đầy ngất ngưởng. Nguyễn Công Trứ hiện ra với tư thế đĩnh đạc, ý thức về bản thân và giá trị của những hành động do mình làm.
Về nghệ thuật, bài thơ đậm nét thể loại hát nói, sử dụng nhiều ngôn ngữ tự xưng, nhiều từ Hán Việt mang tính trang trọng cho thể hát nói. Về nghệ thuật, bài thơ đề cao lối sống ngất ngưởng, phóng khoáng giữa xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, lễ giáo ràng buộc. Không chỉ vậy, “Bài ca ngất ngưởng” còn thể hiện đậm nét con người Nguyễn Công Trứ. Ông không chỉ đa tài, giàu bản lĩnh mà còn có phong cách, có cá tính độc đáo.
Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” đã thể hiện một quan điểm sống đầy mới lạ, táo bạo. Ở đó, con người không bị ràng buộc bởi những lễ giáo phức tạp, mà được tự do, được sống đúng với bản thân, sống đúng với cá tính của mình. Có thể nói, đó là một quan niệm độc đáo, là sự định hình cho phong cách sống “Nhà Nho tài tử” đầy tính nhân văn.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 4Nếu như thể “ngâm khúc thể hiện một con người cô đơn, đau xót đi tìm những giá trị của mình bị mất mát” thì hát nói “một thể thông dụng trong ca trù thể hiện một con người tài tử thoát vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tục lụy, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện tại”. Nhắc đến thể hát nói không thể không nhắc đến tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ bài thơ đem đến cho hát nói một nội dung phù hợp với chức năng và thể loại của nó. Bài thơ thể hiện cái tôi ngông của tác giả, một phong cách sống khác đời vượt ra ngoài lễ giáo phong kiến trên cơ sở ý thức về tài năng và giá trị của bản thân.
Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho nghèo đã từng thi đỗ Giải nguyên và được bổ làm quan xong con đường công danh ấy không được bằng phẳng, thăng trầm. Sáng tác của ông hầu hết là bằng chữ Nôm, thể loại ưa thích nhất của ông là hát nói bởi ông đã có điều kiện tham gia ca trù vốn khá phát triển ở làng Cổ Đạm gần làng ông. Đề tài và nội dung trong các bài thơ hát nói của ông rất đa dạng như: tình yêu, đồng tiền, chí làm trai, sự ăn chơi hưởng lạc….
“Bài ca ngất ngưởng” thuộc đề tài sự ăn chơi hưởng lạc, bài thơ được sáng tác 1848 là năm nhà thơ cáo quan về hưu, sống cuộc đời tự do, thoải mái. Điều đó được thể hiện rõ nét qua từ “ngất ngưởng”. Theo Nguyễn Đình Chú đó là “nhằm để diễn tả một tư thế, một thái độ, một tinh thần, một con người vươn lên trên thế tục, sống giữa mọi người mà dường như không nhìn thấy ai, đi giữa cuộc đời mà dường như chỉ biết có mình, một con người khác đời và bất chấp mọi người”.
Sáu câu thơ đầu là lời tự thuật về cuộc đời thi thố tài năng ở chốn quan trường của tác giả với những sự kiện tiêu biểu. Mở đầu bài thơ là một câu thơ chữ Hán thể hiện quan niệm, triết lí sống mà nhà thơ đã theo đuổi. Do cảm hứng phóng túng, làm chơi, buông thả nên hát nói được cấu tạo một cách đặc biệt. Nó pha trộn lời Hán với lời Việt. Hầu hết các bài đều có một câu chữ Hán là một câu dẫn ngữ nói một tư tưởng nào đó được sẵn đặt ở đầu câu.“Vũ trụ nội mạc phi phận sự” nghĩa là mọi việc trong khoảng trời đất đều là phận sự của ta. Cho thấy sự làm chủ của con người trong vũ trụ, con người với tinh thần nhập thế, trách nhiệm gánh vác việc đời. Ý thơ này đã được ông thể hiện nhiều lần trong những bài thơ khác nhau như: “Vũ trụ chức phận nội” việc trong vũ trụ là phận sự của ta hay “Vũ trụ giai ngô phận sự” mọi việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta. Ông luôn xác định cho mình một lối sống tích cực, sống với đời và đóng góp cho đời. Ông đã chịu ảnh hưởng chí làm trai của Nho giáo và kế thừa tinh thần bậc tiền nhân như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm rồi Phan Bội Châu như “Sinh vi nam tử yếu hi kì/ Há để càn khôn tự chuyển di”…
Tiếp theo nhà thơ tự nói về mình điều hiếm thấy trong thơ văn trung đại. Bởi con người trong giai đoạn ấy cái tôi cá nhân bị lu mờ, ít thấy tác giả xuất hiện trực tiếp do người trung đại không coi mình là trung tâm mà chỉ là một bộ phận trong chỉnh thể lớn. Nhưng ở đây tác giả đã tự tin thể hiện cá tính, con người riêng của mình.
Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài bộ” là tài hoa. Ông tự khẳng định mình là một người “tài năng lỗi lạc xuất chúng” đã “vào lồng” tức ông coi việc làm quan trong triều bị giam hãm trong lồng gò bó, mất tự do. Nhà thơ hẳn phải là con người phóng khoáng, có chí tung hoành, không hám danh hám lợi nên mới tự tin bộc lộ bản thân. Ông liệt kê các học vị, các chức quan lớn mà mình đã nắm giữ. Với câu văn dài ngắn khác nhau, nhịp thơ linh hoạt cùng với cách sử dụng điệp từ “khi” và hệ thống từ Hán Việt đã thể hiện một cảm hứng tự hào, tự tin khẳng định cái tôi cá nhân của một con người tài năng.
Phần còn lại là sự giãi bày cách sống ngất ngưởng khác thường của thi sĩ. Lại một câu thơ chữ Hán xuất hiện “Đô môn giải tổ chi niên” đánh dấu sự kiện chuyển biến trong cuộc đời nhà thơ với ý nghĩa cả câu: năm ở kinh đô cởi trả ấn để về hưu, sống một lối sống như mình mong muốn:
Chỉ với bốn câu thơ mà đến hai lần từ “ngất ngưởng” xuất hiện phải chăng nhà thơ quá yêu thích lối sống ấy. Trong các câu thơ trên có sử dụng nghệ thuật đối ý tương phản. Đạc ngựa mà lại đeo cho bò vàng, tay kiếm cung mà nên dạng từ bi nhắc đến đao kiếm là con người ta nghĩ ngay đến binh đao, chém giết làm sao có thể từ bi, đi vãng cảnh chùa để thoát tục mà “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”… chính sự đối lập gay gắt trong nhân cách của nhà thơ tạo nên sự khác biệt của ông.
Nguyễn Công Trứ là người có công lớn với triều đình, với nhân dân từng giúp dân trị thủy, khai hoang và lập nhiều chiến công trong việc dẹp loạn các cuộc nổi dậy chống triều đình. Ý thức được tài năng của mình ông lựa chọn cho mình một phương thức sống, một cách sống khác người. Trước tiên ông nguyện một lòng phò vua giúp nước, cống hiến tài năng trí tuệ của mình “đem tất cả sở tồn làm sở dụng” (đem tất cả chí bình sinh của mình ra cống hiến cho đời) với trí nam nhi của mình:
Sau khi đã hoàn thành trách trách nhiệm trên vai người trí sĩ yêu nước thương nòi, ông cho phép mình được hưởng thú tiêu dao, hành lạc với quan niệm “Cuộc đời hành lạc chơi đâu là lãi đấy”. Chính bởi vậy ông chẳng bận tâm đến chuyện được mất, khen chê ở trên đời, ông bỏ ngoài tai tất cả để toàn tâm tận hưởng thú vui của riêng mình:
Hai câu thơ tiếp theo với cách ngắt nhịp 2/2/2/2, 2/2/3 linh hoạt, dồn dập liệt kê các thú vui của tác giả, tạo cho câu thơ phong phú về âm điệu, nhạc điệu:
Điệp từ “khi” và ba từ “không” liên tiếp lặp lại cho thấy một tâm hồn tự do, phóng khoáng không vướng bận thế tục, không vướng việc đời, một phong thái ung dung, tự tại. Nguyễn Công Trứ đang tiêu dao tận hưởng những ngày tháng của một kẻ sĩ tài hoa, tài tử: “Ngoài vòng cương tỏa chân cao thấp/ Trong thú yên hà mặt tỉnh say”
Cuối cùng nhà thơ đúc kết lại toàn bộ cuộc đời mình bằng ba câu thơ với sự khẳng định chắc nịch tài năng và phẩm chất của bản thân:
Nhà thơ đã tự xếp mình ngang hàng với các vị danh tướng lỗi lạc của đời Hán, đời Tống bên Trung Hoa. Trái, Nhạc, Hàn, Phú là Trái Tuân, Hàn Phi, Hàn Kì, Phú Bật. Ông tự định vị, tự ý thức được tài đức của mình. Ông rong chơi cho thỏa chí của mình nhưng vẫn vẹn đạo vua tôi. Thật đúng như nhận xét của Trần Đình Sử về Nguyễn Công Trứ “Nhập thế tục mà không vướng tục, rong chơi mà vẫn trọn nghĩa vua tôi”. Kết thúc bài hát tác giả tự xưng bằng một tiếng “ông” hào hùng. Cái tôi cá nhân được phô diễn cực độ, tự tin khẳng định trong triều chẳng có ai được như ông.
“Bài ca ngất ngưởng” với bút pháp nghệ thuật đặc sắc sử dụng các điệp từ, câu cảm thán làm cho ngữ điệu nói bộc lộ rõ, nó làm cho tính chủ thể của lời văn nhất quán và xuất hiện giọng điệu khẳng khái ngang tàn, ngạo thách thức. Sử dụng tiếng thô, tiếng lóng trong sinh hoạt hàng ngày tạo ra giọng nói sống động pha tạp vừa thanh vừa tục. Trong một bài thơ tính cả nhan đề có đến năm lần nhà thơ dùng từ “ngất ngưởng” thể hiện cá tính ngông của ông.
Bài thơ đã khắc họa chân dung của cụ Nguyễn Công Trứ một con người tài ba, lỗi lạc vừa làm trọn phận bề tôi, vừa thỏa chí của bản thân mình. Bài thơ đã góp phần làm cho thể thơ hát nói được thể hiện đúng với cấu trúc, chức năng của mình.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 5Nguyễn Công Trứ là người có tài, hoạn lộ gặp nhiều thăng trầm. Ông để lại cho hậu thế khoảng 150 tác phẩm trên nhiều thể loại nhưng thành công nhất ở thể loại hát nói. Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm hát nói xuất sắc nhất của ông thể hiện cá tính tài tử của bản thân.
Bài thơ được sáng tác trong thời gian ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà. Với thể loại hát nói tự do, phóng khoáng rất phù hợp để thể hiện cá tính, con người của Nguyễn Công Trứ. Văn bản thể hiện rõ lối sống ngất ngưởng của ông khi làm quan cũng như khi cáo quan về ở ẩn.
Theo quan điểm của Nguyễn Công Trứ, ngất ngưởng là sự thể hiện của tính cách cao ngạo, thoát ra ngoài khuôn khổ xã hội phong kiến chuyên chế. Đây đồng thời cũng là phong sống có bản lĩnh cá nhân, khác đời và hơn đời.
Sáu câu thơ đầu thể hiện lối sống ngất ngưởng khi ông đang làm quan. Trước hết ở ý thức trách nhiệm của ông trước cuộc đời và lòng kiêu hãnh tự tin về bản thân: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. Ông khẳng định mọi việc trong trời đất này đều thuộc trách nhiệm của ông. Lời nói đó cho thấy Nguyễn Công Trứ dám khẳng định ý nghĩa, vai trò của bản thân đối với đất nước. Thể hiện ở quan niệm về việc làm quan rất khác người – vừa là danh lại vừa là nợ:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Là danh bởi đây chính là cơ hội để ông chứng tỏ bản thân, chứng tỏ tài năng hơn người, khác người của mình, dùng tài năng đó để cống hiến, phục vụ cho đất nước. Nhưng lại là nợ bởi làm quan sẽ bị ràng buộc bởi trách nhiệm, ông buộc phải chấp nhận cuộc sống gò bó, mất tự do khi ở chốn quan trường. Vốn là người mang trong mình bản tính tự do, tự tại khi bị ép vào khuôn phép cũng là một điều khó khăn đối với Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên vì ý thức trách nhiệm và niềm kiêu hãnh tự tin nên Nguyễn Công Trứ đã gạt đi thú vui thích của bản thân, theo đuổi con đường khoa cử, đỗ đạt ra làm quan để thực hiện hoài bão giúp nước, giúp đời. Hoài bão to lớn, cao đẹp ấy là hoài bão của biết bao người quân tử trong xã hội lúc bấy giờ.
Trong những năm cống hiến cho đời, ông đã làm được nhiều điều và ông tự hào về những điều mình đã làm được, mình đã cống hiến:
Trong cuộc đời làm quan, Nguyễn Công Trứ đã trải qua nhiều chức quan khác nhau: tham tán, tổng đốc Đông, bình tây đại tướng, đều là những chức vụ quan trọng trong triều đình. Điều đó cho thấy tài năng hơn người của ông. Đồng thời đã cho thấy ý thức trách nhiệm cũng như thái độ tự tin, kiêu hãnh của Nguyễn Công Trứ trước những thành quả mình đạt được. Những cống hiến ấy không chỉ thể hiện tài năng hơn đời mà còn thể hiện tấm lòng ưu dân ái quốc của ông.
Khi đang ở đỉnh cao ở vinh quang, năm 70 tuổi Nguyễn Công Trứ xin cáo quan về quê mãi cho đến lần thứ mười hai ông mới được chấp nhận. Về quê ông hưởng thụ cuộc sống tự do, tự tại, ngao du sơn thủy. Hành động của ông khi cáo quan về quê cũng thể hiện tư thế ngất ngưởng, khác người: Đô môn giải tổ chi niên/ Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng. Hành động đó như một sự thách thức đối với hệ thống quan lại đương thời, đồng thời cũng khẳng định thái độ không còn luyến tiếc với hư vinh mà triều đình đem lại. Không chỉ vậy cái ngất ngưởng của ông còn thể hiện trong nhu cầu, sở thích cá nhân, điều mà rất ít khi các nhà thơ khác bộ lộ trực tiếp: nơi ở như chốn thần tiên: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”; du ngoạn cảnh chùa chiền: “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi/ Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/ Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” hay thưởng thức thu vui hát ả đào: “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng/ Không Phật không tiên, không vướng tục”. Ngoài ra nó còn thể hiện trong thái độ sống an nhiên, tự tại, không quan tâm đến những lời khen chê của dư luận: “Được mất dương dương người thái thượng/ Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.
Ông kiêu hãnh, tự hào với lối sống ngất ngưởng của mình: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú/ Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung. Nguyễn Công Trứ tự xếp mình ngang hàng với những người tài năng, nhân cách lỗi lạc. Khẳng định sự khác đời và hơn đời của phong cách sống ngất ngưởng: Trong triều ai ngất ngưởng như ông? Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ là thái độ tự tin và bằng lòng của Nguyên Công Trứ về phong cách sống có bản lĩnh mà ông suốt đời tâm niệm. Đây là lối sống có trách nhiệm với đời, cần phải tận lực cống hiến và cống hiến có kết quả. Tuy nhiên, bên cạnh đó, cũng cần phải biết hưởng thụ những niềm vui mà cuộc sống dành cho mình. Đó còn là lối sống trung thực, dám là chính mình, vượt ra khỏi khuôn mẫu khắc kỉ phục lễ chật chội, giả dối.
Với thể thơ hát nói tự do, phóng khoáng đã giúp Nguyễn Công Trứ thể hiện thành công lối sống ngất ngưởng của bản thân. Lối sống đó thể hiện cá tính tự do, phóng khoáng, bản lĩnh sống lành mạnh, có sự phá cách về quan niệm sống, vượt qua những khe khắt, giáo điều của lễ giáo phong kiến.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 6Trong văn học, ngoài cái tôi lãng mạn, hào hoa khiến người ta say đắm thì còn một cái tôi ngang tàn, ngạo nghễ cũng không kém phần thu hút. Nếu như cái “ngông” của Nguyễn Tuân thể hiện ở sự phản ứng tiêu cực và đầy kiêu ngạo trước cuộc đời, ông thể hiện phong cách tài hoa của mình qua những trang viết lịch lãm, đặt mình lên trên thiên hạ thì Nguyễn Công Trứ cũng thể hiện sự “ngất ngưởng”, phóng khoáng trong cả tài năng, trí tuệ lần cốt cách của ông. Điều đó được thể hiện rõ nét qua tác phẩm Bài ca ngất ngưởng. Có thể nói, bài thơ chính là lời khẳng định của nhà thơ về thái độ sống của mình với cuộc đời.
Bài ca ngất ngưởng được sáng tác năm 1848, Nguyễn Công Trứ từ quan về quê nhà sau hơn 30 năm ông làm quan dưới triều Nguyễn. Trong suốt hơn 30 năm, Nguyễn Công Trứ lúc làm lính thú, lúc cầm quân chinh chiến, khi lại làm đại quan ông đã từng vinh nhục kinh qua, thăng trầm có cả nên có thể nói bài thơ Bài ca ngất ngưởng vang lên như một lời tự thuật về cuộc đời, qua đó ông Hi Văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, biểu lộ một cá tính, một phong cách sống tài tử, phóng khoáng ở đời. Bài hát nói này có hai khổ đôi, tất cả có 19 câu thơ đầy vần điệu, nhạc điệu trầm bổng, réo rắt, lúc khoan thai, lúc hào hùng, đọc lên nghe rất thú vị. Hát nói là một thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ, chất nhạc kết hợp rất hài hoà, hấp dẫn.
Mở đầu bài thơ là lời khẳng định của tác giả về quan niệm sống của một đấng làm trai:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự.”
(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).
Là một người có kinh nghiệm làm quan trên 30 năm, tác giả kể ra những chức vụ mà mình đã từng đảm nhiệm trong suốt những năm tháng phụng sự cho đất nước ấy. Đó là: “Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông…”. Hẳn phải là một người tài giỏi, trí tuệ hơn người, thông minh, điều sự đều nhanh trí thì Nguyễn Công Trứ mới được giao cho nhiều trọng trách như vậy. Vì lẽ đó mà không một công việc gì mà tác giả chưa từng nếm trải qua, nên ông đã khẳng định với những đấng nam nhi còn lại trên cuộc đời này một lí lẽ chắc nịch như vậy. Những chứng cứ nhà thơ nêu ra rất xác đáng, là ví dụ không thể chối cãi cho lập luận ban đầu của ông.
Những tưởng chỉ khi làm quan, có chức có quyền thì Nguyễn Công Trứ mới bày tỏ cái tôi ngạo nghễ, phi thường đến như vậy nhưng không, kể cả trong cuộc sống thường ngày hay khi cáo quan về quê thì cái tôi ấy vẫn không hề mất đi mà còn tự do hơn:
Hình ảnh “đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” cho thấy thái độ giễu cợt của tác giả đối với cuộc đời. Ông chưa từng thấy cái tôi của mình nhỏ bé, thấp hèn mà luôn thấy nó to lớn, sánh ngang với cuộc đời, để có thể hiển nhiên mà chế giễu. Đến cả Bụt cũng phải cười trước sự ngất ngưởng của nhà thơ:
Từ giã cuộc đời làm quan, trở về với cuộc sống bình thường giản dị nhưng lối sống của Nguyễn Công Trứ lại không tầm thường một chút nào. Hình ảnh miêu tả thật hóm hỉnh “Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi”, cũng dễ hiểu thôi bởi nhà thơ trước kia là một người ở chốn quan trường đầy xô bồ, mưu mẹo, nay sống một cuộc sống của người dân bình thường bỗng cảm thấy mình thật “từ bi”. Ông đi lễ chùa mà cũng phải “Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì”. Quả thật, Nguyễn Công Trứ là một con người sống vô cùng phóng túng, sống hết mình mà chơi cũng hết mình. Ông luôn tỏ một thái độ hiên ngang, giễu cợt trước cuộc đời, khiến cho đến cả Bụt cũng phải cười trước sự “ngất ngưởng” của riêng ông. Có thể nói, mấy ai đạt được đến cái sự bất cần, ung dung như Nguyễn Công Trứ. Nhà thơ có được cái phong thái này bởi lẽ:
Chốn quan trường giờ đây đã chẳng còn có ý nghĩa đối với tác giả. Bởi ông không còn phải phục tùng bề trên, nghĩa lệnh cho cấp dưới nữa. Mọi khen, chê, thưởng, phạt của cuộc đời làm quan giờ chỉ là hư vô. Nhà thơ đã thoát khỏi cái vòng danh lợi luẩn quẩn, để được thỏa sức vẫy vùng khắp bốn phương. Cuộc sống ấy thật đáng ngưỡng mộ:
Nhà thơ không còn phải vướng bận bất cứ điều gì trên trần thế, ông có thể vui chơi, đàn hát, uống rượu một cuộc sống tự do, tự tại hơn bao giờ hết. Trải qua biết bao nhiêu năm cống hiến và phụng sự cho triều Nguyễn, tác giả cuối cùng cũng được tận hưởng trọn vẹn cuộc sống của riêng mình một cách “ngất ngưởng” nhất. Thái độ, phong thái này vốn có từ khi nhà thơ bắt đầu làm quan nhưng càng thể hiện rõ nét hơn khi ông về già, về nghỉ hưu.
Ba câu thơ cuối nhà thơ khẳng định rằng “không có một ai ngất ngưởng bằng mình”:
Nguyễn Công Trứ khẳng định với mọi người rằng ông là một vị trung thần tận tâm với triều đình bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật… của đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Công lao và những đóng góp của ông là vô cùng nhiều và to lớn. Giọng văn đĩnh đạc, hào hùng như là lời khẳng định đầy tự hào của tác giả về bản thân. Cho nên ông đã tuyên bố: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!” Câu thơ cuối cùng nói lên nội dung của toàn bài, là sự cắt nghĩa, lí giải về quan niệm làm một đấng nam nhi ở trong trời đất của nhà thơ. Bằng việc khẳng định thái độ sống của mình, ông muốn gửi tới những bậc nam nhi trong thiên hạ rằng phải biết vị trí của mình đối với trời đất, “trị quốc bình thiên hạ” là phận sự của mỗi người. Lời khẳng định tuy ngắn gọn mà xúc tích, bày tỏ sự chắc chắn trong chí hướng của một người đã từng làm quan.
Toàn bộ bài thơ với nội dung mà nó truyền tải, người đọc chắc chắn sẽ hiểu được cái “ngất ngưởng” trong thơ của Nguyễn Công Trứ. Bằng tài năng, kinh nghiệm và những đóng góp của mình cho non sông, đất nước, tác giả đã khiến cho mọi người ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi con người, đặc biệt là người con trai đối với cuộc đời. Như vậy, cái tôi “ngất ngưởng” của nhà thơ không phải là một thái độ tiêu cực mà là sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa, tài tử.
Chỉ qua một bài thơ ngắn mà tác giả đã gửi gắm được toàn bộ lối sống và cái nhìn của mình trước cuộc đời. Thể thơ Nôm độc đáo với nhịp điệu rõ ràng, nhấn mạnh được phong thái hơn người của Nguyễn Công Trứ. Đọc bài thơ, ta thấy thêm cảm phục những người nam nhi đã cống hiến hết mình cho đất nước trong thời kì phong kiến, cũng thấy trân trọng thêm thái độ và tinh thần của tác giả đối với cuộc đời.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 7Nói đến những nhà thơ nửa đầu thế kỷ XIX không thể không nhắc đến nhà thơ – ông quan thị lang triều Nguyễn: Nguyễn Công Trứ. Đây là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử, một phần nhân vật hăm hở lập công, hết sức đề cao chí làm trai và cách sống rất độc đáo, luôn tự do, phóng túng.
Nguyễn Công Trứ được coi là một trong những thi sĩ nổi tiếng nhất đương thời, ông có công lớn trong việc nâng thể hát nói thành thể thi ca có khả năng biểu hiện những tình cảm phong phú và tinh tế.
Trong số những bài thơ của Nguyễn Công Trứ sáng tác theo thể hát nói, nức danh hơn cả là bài thơ Bài ca ngất ngưởng. Đây là một tác phẩm được sáng tác sau khi tác giả rời bỏ chốn quan trường về quê nhà sống cuộc đời ẩn dật. Đây cũng là lúc chất ngạo nghễ, ngất ngưởng vốn có của cụ Thượng Trứ được bộc lộ một cách đầy đủ nhất. Dẫu sao, tuy là một nhân vật có bản lĩnh, giàu cá tính, nhưng khi còn đang làm quan, Nguyễn Công Trứ cũng không thể sống một cách tự do, ông vẫn phải tuân thủ những luật lệ của triều đình. Và như lịch sử đã ghi lại, trong nhiều triều đại phong kiến thì triều đại Nguyễn vẫn được coi là một triều đại có những thiết chế hết sức gò bó, phi lí, phi nhân đạo nhất.
Bằng Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ đã trình bày một cách thật sinh động, độc đáo bản sơ yếu lí lịch của mình và bao trùm bài thơ, người đọc có thể cảm nhận một lối sống khác người, khác đời của tác giả. Lối sống của ông đối lập với lối sống của tập đoàn, đối lập với những quan niệm chính thống lúc bấy giờ.
Trước hết, ngay tiêu đề của bài thơ đã khiến người đọc phải chú ý, phải suy nghĩ. Cái độc đáo của Nguyễn Công Trứ phải chăng được thể hiện ngay trong cách ông đặt tiêu đề của bài thơ: Bài ca ngất ngưởng. Theo cách hiểu thông dụng, ngất ngưởng chỉ thế cao mà không vững, dễ đổ vỡ. Thí dụ: Bình hoa để ngất ngưởng. Ngoài ra, ngất ngưởng còn có nghĩa là chỉ người đi thẳng, không vững, lúc tiến lên phía trước, lúc thì ngả sang phải, lúc ngả sang trái…Đọc kỹ bài thơ, chúng ta có thể nhận thấy tiêu đề của bài thơ này góp phần quan trọng trong việc diễn tả thái độ, tư thế của nhân vật trữ tình – tác giả luôn vươn lên trên thói tục, sống giữa tập đoàn, giữa mọi người mà khác đời, khác người, bất chấp mọi người.
Nguyễn Công Trứ thường nói đến chí nam nhi theo tinh thần nho giáo. Trong bài Chí làm trai, nhà thơ khẳng định:
Ở Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ cũng mở đầu bằng một câu chữ Hán có tính chất tuyên ngôn thể hiện cái chí làm trai nói trên: mọi việc trong trời đất chẳng có việc nào không là phận sự của ta:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Đây chính là điều mà Nguyễn Công Trứ tâm niệm. Chẳng thế mà luôn được ông nhắc đến trong rất nhiều bài thơ trong suốt cuộc đời sáng tác của mình, vũ trụ chức phận nội (việc vũ trụ là phận sự của ta – Gánh trung hiếu), vũ trụ ngã phận sự (Những việc trong vũ trụ là phận sự của ta – Luận kẻ sĩ). Theo quan niệm của Nguyễn Công Trứ, đã sinh ra làm đấng tu mi, thì nhất thiết phải có danh gì với núi sông, phải làm những việc lớn lao, phải được ghi vào sử sách. Cái hay của câu thơ mở đầu chính là triết lí sống đúng đắn và tình cảm chân thành của tác giả. Muốn xã hội tiến bộ, mỗi con người phải tự khẳng định mình, phải cố gắng cao nhất làm được một việc gì đó có ích cho đời để có thể tự hào với mọi người. Khát vọng đó, quyết tâm đó là chính đáng, là rất đáng trân trọng; nhất là một khi nó được thể hiện một cách trực tiếp với một thái độ chân thành của nhà thơ.
Tiếp đó, Nguyễn Công Trứ tự xưng tên mình, tự khẳng định tài năng của mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Lâu nay, câu thơ này ít nhất đã có hai cách hiểu. Cách hiểu thứ nhất cho rằng: ông Hi Văn, một con người tài giỏi đã vào vòng cương tỏa của triều đình (như con chim yêu tự do, thích bay trên bầu trời cao rộng, nay bị nhốt vào lồng), và do đó, ông không thể sống ngất ngưởng như mình muốn. Cách hiểu thứ hai: ông Hi Văn là người toàn tài, có thể sánh ngang với trời đất; lồng ở đây được hiểu là trời đất, là vũ trụ, trong quan niệm của người xưa thì đất có hình vuông và trời có hình tròn. Có lẽ cách hiểu thứ hai thuyết phục hơn, nhất quán hơn so với cách hiểu thứ nhất; đặc biệt nếu đặt trong cảm hứng bao trùm bài thơ, cách hiểu này có văn cứ hơn. Vả chăng, nội dung hai câu đầu thường sẽ chi phối toàn bộ bài thơ, mà cảm hứng chủ đạo trong bài thơ này chính là cảm hứng ngạo nghễ, ngất ngưởng chứ không phải là nỗi niềm oán thán về việc mất tự do. Hi Văn là biệt hiệu của Nguyễn Công Trứ. Nói trực tiếp về mình, gọi hiệu mình ra mà nói là cách diễn đạt rất Nguyễn Công Trứ. Trước cụ Thượng Trứ, bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng có lần xưng danh:
(Mời trầu)
Và tác giả Truyện Kiều cũng đã từng xưng hiệu trong một câu thơ ai oán của Độc Tiểu Thanh kí:
Nhưng quả thật chưa ai xưng danh rồi sau đó lại dám khẳng định luôn mình là người có tài năng như Nguyễn Công Trứ. Có điều, câu thơ tác giả nói về mình nhưng tựa như nói về người khác, nói một cách tự nhiên, hồn nhiên.
Đoạn thơ trên bộc lộ sự tự khẳng định niềm tự hào về tài năng văn võ song toàn của mình. Tuy vậy, cái hay của đoạn thơ trên trước hết xuất phát từ thái độ chân thành, hồn nhiên và sự trung thực của tác giả. Tiểu sử Nguyễn Công Trứ quả đã có ghi: Vào năm 1819, ông đã đỗ thủ khoa kì thi Hương; 7 năm sau, Nguyễn Công Trứ làm tham tán công vụ, đến năm 1831 ông làm Tổng đốc tỉnh Đông (Hải An). Lúc 62 tuổi, ông được cử đi đánh thành Trấn Tây…Tuy là một người xuất thân quan văn, nhưng Nguyễn Công Trứ đã từng chỉ huy đánh tiễu phỉ ở biên giới phía Bắc, đánh giặc ở biên giới Tây Nam, rồi đàn áp các cuộc nổi loạn của nông dân.
Đối với những nhà giàu sang quyền quý khi xưa, ngựa là phương tiện giao thông chủ yếu. Đi ngựa là thể hiện sự sang trọng và quyền lực. Nhưng cụ Thượng Trứ lại khác đời: cụ không đi ngựa mà lại đi xe do con bò cái lông vàng kéo, rong chơi khắp chốn. Đã thế, trước cửa xe, cụ để bốn câu thơ trên một tấm mo cau:
Quả thật, ở con người Nguyễn Công Trứ có sự tương phản gay gắt. Sự tương phản này tạo nên nét hấp dẫn của tác giả, một tay ngất ngưởng: bò vàng lại đeo đạc ngựa, vốn tay kiếm cung mà lại từ bi, đi chùa mà lại mang theo cả một đôi dì. Điều ấy khiến cho kẻ hiền lành, thoát bụt cũng cảm thấy nực cười.
Vậy, vì sao Nguyễn Công Trứ sống giữa chốn danh lợi bon chen như thế mà vẫn bình thản, thoát khỏi lẽ thường ở đời, nhất là đối với một quan lại triều đình trong chốn hoan lộ vốn bất bằng? Có lẽ vì một lẽ đơn giản ngay trong tiềm thức, trong ý thức sâu xa của mình, ông đã không quan tâm đến cái được, cái mất ở đời. Ta còn nhớ trong ngót ba mươi năm chốn quan trường, có lúc Nguyễn Công Trứ làm đại tướng, có khi chỉ là một anh lính thú ở chốn biên ải. Tuy thế, lúc nào ông cũng bình thản như ngọn gió xuân, mặc cho thiên hạ khen hay chê:
Và nguyên nhân cốt lõi của thái độ sống này, của cái ngất ngưởng này chính là sự ý thức đầy đủ về cái tôi cá nhân, cá thể của mình, cũng như ý thức về tài năng và phẩm hạnh của mình.
Câu kết của bài thơ, Nguyễn Công Trứ nhấn mạnh thêm một lần nữa cảm hứng ngất ngưởng bằng câu: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông?”. Câu nghi vấn nhưng lại chính là câu khẳng định: trên đời này không ai độc đáo, ngạo nghễ, ngất ngưởng bằng thi sĩ Nguyễn Công Trứ.
Đặt trong chế độ phong kiến, Bài ca ngất ngưởng có ý nghĩa về nhiều phương diện. Nó ít nhiều báo hiệu sự thức tỉnh của ý thức cá nhân, cá thể trong hoàn cảnh cái tôi không được thừa nhận. Nó ghi nhận một bước tiến đáng kể trong lịch sử dân tộc theo hướng dân chủ hóa.
Ngày nay, lối sống và cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ có thể cần được tiếp thu một cách cân nhắc. Tuy nhiên, bài thơ Bài ca ngất ngưởng vẫn còn có ý nghĩa, trước hết trong việc khích lệ người đọc hãy sống mạnh mẽ, hãy sống có ích để cuộc đời mình ngày một có ý nghĩa, không chấp nhận một cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 8Ngay lúc chưa có danh phận gì, Nguyễn Công Trứ đã từng tự hứa với mình: “Đã mang tiếng ở trong trời đất – Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh). Chưa có rồi sẽ có, chỉ cần quyết tâm và nhất là cần tài năng, mà hai cái đó, Nguyễn Công Trứ thấy mình có đủ. Được hậu thuẫn bởi những thành công trong sự nghiệp, cùng với thời gian, niềm tự tin trong ông ngày càng được củng cố. Ông đã ngất ngưởng và thấy mình có quyền ngất ngưởng – ngất ngưởng trong đời và cả trong thơ, ngất ngưởng từ lúc bạch diện thư sinh, lúc hoạn hải ba đào cho tới tận lúc đã ra ngoài vòng cương tỏa. Đối với ông, ngất ngưởng là một giá trị, một cách khẳng định giá trị. Thật tự nhiên khi ông có hẳn một bài thơ nói về sự ngất ngưởng, đặt ngất ngưởng lên bình diện ý thức, nghĩa là kể về nó, luận về nó một cách trực diện – ta đang nói về bài thơ hát nói vào hàng xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ: Bài ca ngất ngưởng !
Cho đến nay, trong đời sống, từ ngất ngưởng đã được dùng, được hiểu theo các nghĩa chính: một là thế ngồi, thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư dễ ngã, dễ đổ; hai là cách sống, thái độ sống, một kiểu ứng xử có phần khác biệt, thậm chí thách thức với các chuẩn mực thông thường vốn được người đời chấp nhận.
Nhân vật trữ tình trong bài thơ gần như trùng khít với tác giả. Hoàn toàn có thể xem đây là một bài thơ tự vịnh bởi suốt cả tác phẩm, nhà thơ nói trực tiếp về mình, từ sự nghiệp có thể gọi là hiển hách đến cách sống chẳng giống ai và thái độ tự tôn, tự tại rất mực. Nhưng cách tự vịnh của Nguyễn Công Trứ cũng độc đáo khác người. Tác giả đã dùng nhiều từ, cụm từ khác nhau để gọi mình: ông, ông Hi Văn tài bộ, ông ngất ngưởng, tay ngất ngưởng (cũng có thể kể thêm cụm từ “phường Hàn, Phú”). Mới đọc qua, người đọc dễ tưởng có một ai đó đang nói về Nguyễn Công Trứ, bởi những ông, những tay đã được dùng như các đại từ thuộc ngôi thứ ba. Ở đây nhà thơ đã khách quan hóa bản thân, tách mình ra khỏi mình để xem xét mà không sợ “cái mình” ấy bị “nhỏ” đi. Phải là một kẻ rất tự tin mới làm nổi điều này. Nhà thơ ý thức rất rõ rằng mình là một giá trị hiển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận. Ông ngông nghênh đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa. Kết cấu câu chẳng… cũng (“Chẳng Trái, Nhạc cũng phường Hàn, Phú”) thể hiện một thái độ tự đánh giá cao rất dứt khoát. Ta tưởng như nghe ông nói: “Cái tay Nguyễn Công Trứ ấy, cũng được đấy chứ nhỉ !”.
Bài ca ngất ngưởng thuộc loại bài thơ hát nói dôi khổ gồm 19 câu. Đi vào khổ đầu tiên, ta đã thấy hiện lên một con người ngang trời dọc đất:
Câu thơ chữ Hán mở đầu toát lên giọng điệu trang trọng, rắn rỏi, khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo: trong vòng trời đất, không việc gì không phải là việc của mình. Dĩ nhiên, đây là lí tưởng chung của những người được đào luyện trong môi trường Nho học và Nguyễn Công Trứ không có phát triển gì thêm. Nhắc lại nó, chẳng qua nhà thơ muốn tái hiện trạng thái tràn trề nhiệt huyết của mình buổi quyết định bước vào lồng. Âm vang trong câu thứ hai là một lời hứa hẹn, một thách thức, với mình và với đời, rằng: Hãy chờ đó mà xem ! Về hai chữ vào lồng, có người cho rằng nó thấm vị chua chát, thể hiện sự ý thức về tình trạng trói buộc, tù túng của chốn quan trường. Nhưng theo mạch thơ, “lồng” ở đây trước hết là lồng phận sự. Đã nói đến phận sự là nói đến cái luật của nó mà người ta không được phép quên. Đã chơi thì phải chấp nhận luật chơi – chấp nhận để vượt qua, và cũng để thể hiện được cái tài, cái giỏi của mình. Thêm nữa, cứ cho “lồng” là sự trói buộc, thì điều nhà thơ muốn nói ở đây hàm chứa niềm kiêu hãnh: dù vào lồng, ta vẫn cứ nên tay ngất ngưởng, vẫn khẳng định được mình như thường, đâu phải hạng xoàng xĩnh vào luồn ra cúi ! Nguyễn Công Trứ quả có “kiêu” khi tự nhận mình là người tài ba, tài trí (tài bộ) và tinh thông võ nghệ (gồm thao lược). Nhưng ông đã “kiêu” một cách hoàn toàn có căn cứ.
Trong nửa đầu khổ thứ hai, ông tiếp tục điểm qua những mốc đáng nhớ trên hoạn lộ của mình:
Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc, đại tướng, Phủ doãn, cái gì ông làm được cũng thuộc loại “nhất bảng”! Điệp từ “khi” (cùng với nó là từ “lúc”) đã tạo được nhịp điệu dồn dập cho các câu thơ, biến cả đoạn thơ thành cuốn phim quay nhanh, điểm lại công nghiệp phong phú của con người đã sống một cuộc đời thật đáng sống. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện thái độ hào hứng của tác giả khi “tính sổ” cuộc đời, thấy mình có thể “vỗ tay reo” khi nợ tang bồng đã được thanh toán sòng phẳng. Hoàn toàn có thể hiểu được tại sao khi rời bỏ kinh thành về quê, ông lại ngông đến thế:
Chắc hẳn khi kể lại những việc đã xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, Nguyễn Công Trứ vẫn còn lấy làm thú vị hết sức. Ông quả là người biết thưởng thức chính những việc làm trái khoáy nhiều phần khinh bạc của mình. Khinh bạc ở đây là khinh bạc với đời, với những kẻ không đủ gan dứt bỏ chốn quan trường. Dù sao đối với ông, tất cả cũng chỉ là một cuộc chơi. Ông quý trọng những gì mình đã làm được, nhưng quý trọng không có nghĩa là chỉ biết khư khư ôm lấy chúng. Cái ông có đâu chỉ chừng ấy, dù đối với bao người, “chừng ấy” cũng đã vô cùng đáng kể rồi. Với từ “ngất ngưởng” ở câu cuối khổ hai, ta hình dung thật rõ dáng ngồi ngất nghểu, khật khưỡng của tác giả trên lưng con bò cái vàng được “trang sức” bằng đạc ngựa – một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi, khiêu khích, như muốn giỡn mặt với “cả và” thiên hạ, trước hết là với hàng ngũ đông đúc những quan to, quan bé trong triều.
Bỏ lại sau lưng một thời vùng vẫy hào hùng, về nơi cố thổ, nhà thơ để tâm trí hút vào màu mây trắng trên đỉnh non cao:
Những tưởng khổ thơ đưa người đọc tới miền tâm sự riêng tư, trầm lắng và những cảm nhận hư vô về cuộc đời. Thực ra cũng có một phần, bởi màu mây trắng vốn tồn tại trong văn học như một biểu tượng của cuộc sống ẩn dật thanh cao. Người ta nghĩ nhiều về nó khi muốn hoặc khi đã trút sạch làu làu những ham muốn trần tục. Nhưng trường hợp Nguyễn Công Trứ thì có khác. Điều ông muốn kể vẫn là sự biểu hiện của cái tôi ngông ngạo vốn có ở “môi trường” mới, không phải trong cái lồng phận sự. Kể ra cũng có lắm chuyện thú vị. Nhà thơ đã khôi hài nói về kiểu nhập vai nửa vời, không triệt để một cách cố ý của mình. Chà chà, tay kiếm cung mà bây giờ cũng nên dạng từ bi cơ đấy ! Anh ta đã thực sự trở thành kẻ ăn chay rồi hay sao ? Không phải ! Hãy xem cái cách anh đi vãn cảnh chùa thì biết. Đến nước ấy thì Bụt cũng phải chào thua. Không kể văn học dân gian, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học viết, ta biết tới một ông Bụt bình dân đến vậy. Nguyễn Công Trứ quả có đủ tài, đủ cái hóm hỉnh để khiến Bụt nếu không đồng lõa với mình thì cũng phải bỏ qua cho mình bằng một cái cười xòa.
Đối với Nguyễn Công Trứ, tháo được dây đeo ấn trả lại nhà vua (giải tô) là một điều kiện cần thiết để những con người khác trong ông được dịp cất tiếng nói. Ông rõ ràng rất biết sống cho mình:
Có khá nhiều từ láy ngoài từ “ngất ngưởng” xuất hiện trong hai khổ thơ 3, 4: phau phau, đủng đỉnh, dương dương, phơi phới. Rõ là đoạn thơ chú trọng vào việc miêu tả cảm giác, trạng thái tinh thần của tác giả khi đã thoát khỏi vòng cương tỏa, khác với đoạn trước nghiêng về kể khái quát những công tích đạt được. Từ “kìa” cũng gắn liền với sự miêu tả, như muốn bày ra trước độc giả một cảnh tượng thật thích chí. Nói chung, cả đoạn thơ thấm một ý vị hài hước rất hấp dẫn, cho thấy nhà thơ khá bằng lòng với mình, có tự giễu cợt mình cũng là giễu cợt trên tinh thần tự tin rất mực. Điệp từ “khi” được dùng kèm với những tiếng trắc, tiếng bằng luân phiên trong câu “Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng” ngoài nghĩa liệt kê gắn liền với ý niệm về thời gian còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả được cái ngả nghiêng thoải mái của nhà thơ trong những cuộc chơi bất tận.
Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ lúc đã ra ngoài vòng cương tỏa có những biểu hiện rất riêng. Nhưng không thể nghĩ rằng ông đã hoàn toàn khác mình trước đó. Thực chất vẫn chỉ có một Nguyễn Công Trứ, rất nhất quán, chỉ có điều, khi làm một hưu quan, ông có nhiều điều kiện hơn để thể hiện sự phóng túng và tư tưởng hành lạc (sống vui, vui sống) của bản thân. Ông hoàn toàn không tự mâu thuẫn khi gộp chung con người hành đạo và con người hành lạc vào một, trong lời tổng kết cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở khổ cuối:
Sự phóng túng dù được thể hiện ở mức độ cao vẫn không dẫn nhà thơ tới thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vãn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và luôn tâm niệm “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Câu thơ vừa trích không phải đã được viết ra để rào đón, dè chừng, theo như cách hiểu của một số người. Đối với Nguyễn Công Trứ, hành đạo thì cần hiệu quả và hành lạc thì cần “say sưa”, tất cả đều có ý nghĩa. Hành đạo và hành lạc không thể bị đặt vào trong một tương quan loại trừ.
Nhìn chung, Bài ca ngất ngưởng đã khẳng định lí tưởng sống hài hoà giữa cái vì đời và cái vì mình. Bao trùm cả bài thơ là âm điệu khẳng định. Ta không thấy bợn lên ở đây một chút ân hận hay động thái tự vấn nào. Nguyễn Công Trứ đã thể hiện được tài năng của bản thân khi thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc, hành đạo cứu đời. Ông đã giữ được bản tính hào mại, phóng túng cả khi vào lồng phận sự và dấn thân trong chốn quan trường. Ông, khác với nhiều người, đã dứt bỏ chức vị với bao nhiêu cám dỗ một cách nhẹ nhàng, không vướng bận. Ông đã nhập vào các cuộc chơi một cách thoải mái, với tư cách của một kẻ đam mê, dám hết mình. Ông có thể nói mà không thấy ngượng, với mình và với đời: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông”.
Với một con người, khó nhất là cái tự tri. Nguyễn Công Trứ là một kẻ tự tri. Sự thoả mãn của ông được bảo đảm bằng cả một cuộc đời phong phú, bằng sự tự tri. Nó không gây “chói”, ngược lại, tạo được lòng kính trọng ở người đời, ở độc giả.
Nói về sự hấp dẫn của ngôn từ thơ ở Bài ca ngất ngưởng, có lẽ không thể bỏ qua việc nhà thơ vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ. Khi tự xưng thì dùng các đại từ như ông, tay. Khi biểu lộ hồn thơ lai láng thì “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Khi buộc phải so sánh thì “Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”,…
Rồi bao nhiêu từ ngữ mang tính chất nôm na, thông tục đã được “điều động” một cách linh hoạt. Đó là vào lồng, tay kiếm cung, một đôi dì, nực cười, phương. Quả tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sống động và gần gũi, phù hợp hoàn toàn với cốt cách con người tác giả, cũng phù hợp với âm hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại trực tiếp mà là đối thoại ngầm với những cách sống, kiểu sống khác – tầm thường và hèn kém). Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ như tiếp nhận một lời nói, giọng nói trực tiếp. Độc giả hoàn toàn có thể tưởng tượng thấy đi kèm với các câu thơ là ánh mắt giễu cợt, là nụ cười hóm hỉnh hài hước, là dáng vẻ lúc lắc nghênh ngang của một kẻ ung dung bước giữa đường đời.
Thể thơ hát nói là “thể thơ của con người cá nhân và tự do”. Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không hạn định chặt chẽ trong bài thơ (nhất là với bài thơ hát nói dôi khổ) đã cho phép tác giả phô diễn một cách khoái hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình. Không chỉ thế, sự chuyển đổi vần bằng, vần trắc luân phiên trong các câu, các khổ; sự biến hoá đa dạng trong nhịp ngắt; sự cho phép pha trộn ngôn từ nửa Nôm nửa Hán; sự xuất hiện của nhiều từ láy, nhiều điệp từ, đã đưa lại ấn tượng người làm thơ không gặp phải bất cứ một sự gò bó nào, muốn kể, muốn tả, muốn nghiêm túc, muốn giỡn đùa đều được. Điều quan trọng là anh có tận dụng được tính phóng khoáng và dân chủ đó của thể loại để diễn tả tâm tình, suy nghĩ của mình hay không. Có thể nói, với thể thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ đã hoàn toàn được là mình. Thể thơ hát nói đã cho văn học Việt Nam một Nguyễn Công Trứ như ta đã biết và ngược lại chính Nguyễn Công Trứ đem lại được cho thể thơ hát nói một vị trí vinh dự trong bảng thể loại văn học của dân tộc.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 9Nguyễn Công Trứ không chỉ là một vị quan mà còn là một nhà thơ, nhà văn lớn của văn học Việt Nam nói chung và văn học trung đại nói riêng. Nguyễn Công Trứ sáng tác rất nhiều, đặc biệt là thơ văn chữ Nôm và thông qua những sáng tác ấy hiện lên rõ nét phong cách độc đáo của ông. Và có thể nói, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” – tác phẩm được xem như bản tổng kết về cuộc đời của Nguyễn Công Trứ là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông.
Đọc bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ người đọc sẽ dễ dàng nhận thấy “ngất ngưởng” chính là cảm hứng xuyên suốt toàn bộ bài thơ, nó xuất hiện bốn lần trong tác phẩm. Vậy từ “ngất ngưởng” trong bài thơ nên được hiểu như thế nào? Như chúng ta đã biết, “ngất ngưởng” là một từ láy dùng để chỉ độ cao – cao hơn người khác, vật khác và luôn ở trong trạng thái nghiêng ngả, chực đổ, nó không hoàn toàn vững nhưng cũng không thể nào đổ được.
Tuy nhiên, trong tác phẩm, “ngất ngưởng” không phải được dùng với nghĩa ấy mà nó được sử dụng ở một tầng nghĩa khác, đó chính là lối sống, thái độ sống của tác giả. Và với cách hiểu đó, chúng ta sẽ thấy bài thơ có nhiều điều thú vị, hấp dẫn.
Trước hết, trong sáu câu thơ đầu của bài thơ, tác giả đã thể hiện rõ nét sự ngất ngưởng khi ở chốn làm quan. Đầu tiên, sự ngất ngưởng ở chốn làm quan được thể hiện ở sự khẳng định vai trò, vị trí của chính mình trong trời đất:
Với hai câu thơ nhưng tác giả đã cho thấy thái độ về vị trí của mình. Với ông, mọi việc trong vũ trụ, trời đất đều là việc của mình, đồng thời, ông coi việc nhập thế chính là cách để ông bộc lộ tài ba, trí tuệ của mình. Và để rồi, từ sự khẳng định ấy, ông đã phô diễn, đã khoe tài năng, danh vị của mình:
Trong bốn câu thơ, tác giả đã sử dụng hàng loạt từ Hán Việt – Thủ khoa, Tham tán, Tổng đốc Đông,… cùng bút pháp liệt kê và điệp ngữ, từ đó cho người đọc thấy rõ tài năng và danh vị của mình. Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ là người văn võ song toàn, đồng thời giữ nhiều chức vị quan trọng trong cuộc đời làm quan của mình. Như vậy, trong sáu câu thơ đầu nào thơ, tác giả đã nói về tài năng, khoa danh vị của mình với một thái độ đầy trang trọng, nhấn mạnh và đầy tự hào.
Không chỉ ngất ngưởng ở chốn làm quan, Nguyễn Công Trứ còn ngất ngưởng cả trong lối sống sau khi đã cáo quan về hưu, điều đó được thể hiện chân thực và rõ nét trong mười ba câu còn lại của bài thơ. Trước hết, lối sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi cáo quan về hưu được thể hiện ở lối sống khác người, khác đời, trái khoáy.
Hai câu thơ đã gợi lên trước mắt chúng ta dáng ngồi ngất nghểu của tác giả trên lưng con bò vàng được trang sức bằng đạc ngựa – một dáng vẻ khác người, như muốn khiêu khích, trêu ngươi. Và để rồi, khi thả hồn mình vào mây trắng, núi cao, dáng vẻ ngất ngưởng của tác giả vẫn không thay đổi:
Có lẽ trong văn học, chưa bao giờ chúng ta thấy một người nào đi vãn cảnh chùa giống như Nguyễn Công Trứ. Đi vãn cảnh chùa – nơi chốn thanh cao, tao nhã vậy mà lại mang theo một cô gái hầu. Cái dáng vẻ, cái lối sống ấy của ông khiến Bụt cũng phải chào thua, cũng phải bật cười.
Đồng thời, trong lối sống của mình, Nguyễn Công Trứ không chú ý nhiều đến chuyện được, mất, khen chê bởi với ông, chuyện được, mất chẳng biết cái nào hơn cái nào.
Thêm vào đó, ở Nguyễn Công Trứ ta còn thấy hiện lên lối sống tự do, thỏa chí, muốn gì làm này, không vướng tục.
Như vậy, có thể thấy, thái độ, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ khi về hưu có những biểu hiện rất riêng. Tuy nhiên, ở ông ta vẫn thấy nhiều điểm nhất quán với cuộc sống trước đó, ông vẫn luôn là một bề tôi trung thành. Và để rồi, ông đã có một lời tự tổng kết về cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở trong những câu thơ khép lại bài thơ.
Tóm lại, bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ với âm điệu khẳng định, lối nói đậm tính khẩu ngữ đã thêm một lần nữa cho chúng ta thấy vẻ đẹp nhân cách con người tác giả – một con người tài năng, lí tưởng sống hài hòa giữa cái vì đời và vì mình.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 10Nguyễn Công Trứ tự là Tồn Chất, hiệu là Hi Văn, sinh năm 1778, người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha ông là Nguyễn Công Tấn, đậu hương cống, từng làm tri phủ Tiên Hưng (Thái Bình), sau đó do hưởng ứng phong trào phò Lê chống lại Tây Sơn, nên được triều Lê phong tước Đức Nghi Hầu.
Advertisement
Nguyễn Công Trứ là một người tài năng hiếm có về nhiều mặt, đã sớm xác định con đường tiến thân bằng khoa bảng công danh. Thời trẻ, Nguyễn Công Trứ học hành cần mẫn, nhưng thi cử lận đận, mãi đến năm 42 tuổi mới đỗ giải nguyên. Cuộc đời làm quan của ông lên xuống bất thường, vậy mà lúc nào ông cũng ôm ấp chí lớn và giữ đạo tôi trung Nguyễn Công Trứ hăng hái thi hành chức trách, phận sự, kể cả việc nhiều lần đánh dẹp nông dân khởi nghĩa, nhưng không thể mất yếu tố tiến bộ của nhà nho chân chính.
Khi làm quan, ông nổi tiếng thanh liêm. Trong việc khai khẩn đất hoang, đắp đê lấn biển. Nguyễn Công Trứ đã Đem lại lợi ích cho nhân dân ở nhiều nơi, đáng kể là vùng Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, mặc dù đã 80 tuổi Nguyễn Công Trứ vẫn dâng sớ xin cầm quân đánh giặc. Cũng năm đó, ông qua đời.
Nguyễn Công Trứ là hiện tượng đặc biệt về một kẻ sĩ mà lại có cuộc sống phóng túng và cá tính tự do, độc đáo. Thơ ca còn lại của Nguyễn Công Trứ gồm khoảng 50 bài thơ, trên 60 bài ca trù, một bài phúng, đều viết bằng chữ Nôm. Ngoài ra còn có một số bài thơ chữ Hán, một số câu đối Nôm.
Bài ca ngất ngưởng là tác phẩm được viết vào sau năm 1848, lúc Nguyễn Công Trứ cáo quan về hưu. Đây là tiếng nói của Hi Văn sau quãng đời hoạn lộ gập ghềnh. Thời kì suy tàn của chế độ phong kiến Việt Nam được đánh dấu bằng sự xuất hiện của con người khát vọng tự do (như Chim trong lồng của Nguyễn Hữu Cầu), người anh hùng “phản nghịch” (như Từ Hải trong Truyện Kiều), người phụ nữ “nổi loạn” (trong thơ Hồ Xuân Hương)…
Cũng là sự phản ứng với hoàn cảnh, nhưng ở Nguyễn Công Trứ, sự biểu hiện chủ yếu trên phương diện quan niệm và lối sống bằng hình thức phóng to hình ảnh con người cá nhân đến mức khôi hài. Dưới con mắt của người đời và sự tôn xưng của Hi Văn thì đó là sự ngất ngưởng. Bài thơ được viết theo thể ca trù hay còn gọi là hát nói, một lối thơ tự do về nhịp điệu, câu chữ. Ở đây, để tài phù hợp với nội dung cảm xúc của bài thơ.
Kết cấu bài thơ gần như kết cấu một bài thơ hát nói, chia làm nhiều đoạn gọi là khổ). Mỗi đoạn được kết bằng câu có từ “ngất ngưởng”, soi sáng những góc độ khác nhau của hình tượng nhân vật trữ tình, trên cơ sở cảm hứng chủ đạo mang tính nhân văn và ý nghĩa chống phong kiến.
Con người ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trước hết là con người tài năng, danh vọng. Câu thơ chữ Hán mở đầu cô đúc quan niệm lập thân của Nguyễn Công Trứ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự”. Đây là quan niệm mà ông đã nói nhiều bài thơ, cho rằng con người sinh ra do “ý của trời đất” (“Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý” – Trời đất sinh ra ta là có ý), nên phải có trách nhiệm, phải gánh vác việc đời (Vũ trụ giai ngô phận sự” – Những việc trong vũ trụ đều thuộc trong phận sự của ta).
Trong Nguyễn Công Trứ, quan niệm ấy gắn liền với ý tưởng “tu, tề, trị, bình”, với chí làm trai và chủ nghĩa anh hùng mà ông đeo đuổi với tất cả lòng tin tưởng, lạc quan trong suốt cuộc đời. Sau quan niệm ấy là sự hiện diện một con người tài năng xuất chúng và danh vọng vẻ vang:
Tính tự thuật qua các nhân vật từ nhân xưng về tên hiệu, quan chức, tài năng đã khắc họa con người cá nhân tự ý thức về mình, mức độ lộ ra ngoài bộ dạng: “Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ còn có ý vị trào phúng: một con người tầm cỡ thế mà lại chịu đặt mình vào chiếc lồng hạn hẹp. Nhưng chút cười đùa này thực ra là để khẳng định lòng tự tin của Nguyễn Công Trứ.
Ông không phải không biết chốn quan trường đầy rẫy những dây nhợ nào buộc trói được. Trong hình thức biểu hiện có sự kết hợp hệ thống từ Hán – Việt và từ Nôm: những từ Hán Việt về quan chức, danh vị thể hiện một tài năng thành đạt gắn liền với xã hội phong kiến.
Còn từ Nôm là những từ thông dụng được sử dụng linh hoạt trong các câu thơ dài ngắn xen nhau, nhịp điệu nhịp nhàng, đến dàn trải thể hiện con người cá nhân tự do, đồng thời ghi rõ các gốc sự ngất ngưởng ở con người đó là gì: “Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”. Như vậy con người ngất ngưởng ở đây là con người cũng là cơ sở để cá nhân vượt lên khỏi mọi ràng buộc.
Cái ngất ngưởng trong thơ Nguyễn Công Trứ là sự ngất ngưởng trước cuộc đời được mất. Cuộc đời Nguyễn Công Trứ được ghi nhận bằng những chiến tích, những lần thăng quan tiến chức.
Nhưng cũng có những bước thụt lùi, cay đắng. Theo sử sách ghi thì Nguyễn Công Trứ làm đại tướng, khi bị cách tuột làm lính thú, thăng quan hẳn là do tài năng hơn người của ông. Nhưng còn những lần bị giáng chức? Và còn đó những lời thẩm bình của dư luận. Nguyễn Công Trứ thấy rõ đằng sau sự bất công mà ông phải chịu là mặt trái của xã hội phong kiến. Khi cần ông tố cáo gay gắt:
(Vịnh nhân tình thế thái)
Tuy vậy, cách biểu hiện thái độ mà Nguyễn Công Trứ đặc biệt lựa chọn là đem đối lập con người mình với thói tục bằng một tư thái ngông nghênh và tiếng cười đắc ý. Sách vở chép rằng lúc về hưu Nguyễn Công Trứ thường cưỡi bò vàng có đeo nhạc ngựa, còn đem một mo cau buộc chỗ đuôi bò, nói là để che miệng thế gian. Và ông cho việc làm đó là sự ngất ngưởng: “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.
Bên trong tiếng cười và điệu bộ ấy là triết lí tự nhiên về sự được mất: “Được mất dương dương người tái thượng”. Nguyễn Công Trứ đã thông qua điển tích “Tái ông thất mã” để phơi bày bản chất xã hội và đưa ra cách nhìn nhận của mình. Xã hội đầy biến động thời Nguyễn Công Trứ thiếu gì cảnh “lên voi xuống chó” và đó là mảnh đất sản sinh quan niệm về sự rủi may.
Có điều là ở con người bản lĩnh cứng cỏi và niềm tin ở bản thân như Nguyễn Công Trứ thì quan niệm ấy không thể biến thành tư tưởng hoài nghi làm con người nhụt chí hay bị xô đẩy đến chủ nghĩa “vô vi” của Lão Trang. Trái lại, nó đem đến lí lẽ để ông không phải bận tâm với chuyện đời “nóng lạnh” và thêm vẻ “dương dương”.
Tuy nhiên, đối mặt với sự “được mất” cũng có nghĩa đối mặt với sự giàu nghèo, vinh nhục vốn là những giá trị vật chất tinh thần truyền thống. Hiểu như thế chúng ta sẽ thấy con người “dương dương”, “ngất ngưởng” thực sự là con người có tài năng, phẩm chất vượt lên trên những thế lực xưa nay ngự trị trong cuộc sống con người.
Ngất ngưởng còn biểu hiện trong phong cách, lối sống. Ở Nguyễn Công Trứ có con người lí tưởng của chí làm trai thời phong kiến. Nhưng cũng có con người cá nhân sống hết mình; có con người hành động hăm hở, lạc quan và con người vui chơi bám đuổi theo sở thích: “Tay kiếm cung… một đôi dì” Nguyễn Công Trứ đã đem hết tài năng và cảm hứng để vẽ bức tranh về cuộc sống riêng của mình: những từ láy đặc tả màu sắc, đường nét {“phau phau”, “đủng đỉnh”, “phơi phới”), những điệp từ kết hợp với nhịp thơ phóng khoáng (“Khi ca, khi tửu… không Phật, không Tiên…”)
Khả năng biểu cảm dồi dào của tiếng Việt đã thể hiện đặc sắc cái phóng túng, đam mê của con người Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên đây không đơn thuần là một nhu cầu hưởng lạc được thi vị hóa. Nguyễn Công Trứ đã nâng được những gì được mô tả thành một phong cách, thành lối sống, và dụng ý nghệ thuật của nhà thơ là đã biến nó thành hình ảnh trái ngược với những tính giáo điều phong kiến.
Hệ tư tưởng Nho giáo đòi hỏi ở mỗi con người trách nhiệm đối với cộng đồng, nhưng lại phủ nhận “cái tôi”, áp đặt lên con người một cuộc sống khắc nghiệt, phi nhân tính. Còn đạo Phật, đạo Giáo thì hướng con người đến con đường thoát tục và giải thích việc đáp ứng những nhu cầu cuộc sống con người là nguyên nhân của sự đau khổ. Từ cuộc sống mà mình làm chủ Nguyễn Công Trứ tìm đến “non tiên”, “cảnh phật” vì thấy ở đó một thế giới thiên nhiên tươi đẹp gắn với những tư tưởng phong kiến siêu hình vươn lên một cuộc sống đích thực của con người.
Phần kết của bài thơ Nguyễn Công Trứ khái quát về con người mình với đặc điểm: một tài năng, hoài bão lớn, sống trong xã hội phong kiến không thể không thấy con đường, lí tưởng của xã hội để thi thố tài năng, làm nên sự nghiệp; một nhân cách và ý thức cá nhân mạnh mẽ, tự tin có đủ điều kiện chủ quan và tiền đề xã hội để đối lập với hoàn cảnh và giải phóng cá tính. Tổng hòa các mặt đó ở một con người, tạo nên phong cách sống ngất ngưởng.
Từ “tay ngất ngưởng”, “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” đến “trong triều ai ngất ngưởng như ông” bài thơ đã nâng lên sự khẳng định, đúng hơn là tự khẳng định một con người tiêu biểu cho một kiểu người có tính chất phi chính thống mang đậm sắc “cái tôi” hiện đại ngang nhiên tồn tại trong lòng xã hội phong kiến.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 11Nguyễn Công Trứ, cái tên thật sự quen thuộc và gần gũi mà từ xưa đến nay vẫn được bao người dân Việt Nam nhắc đến như một sự biết ơn trân trọng về công lao khai phá ra hai vùng đất trù phú: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn (Ninh Bình). Song không vì thế mà ta có thể quên đi một Nguyễn Công Trứ, nghệ sĩ tài hoa, một nhân cách đã khẳng định được cái bản ngã của chính mình, để từ đó định hình nên một tính cách, một bản lĩnh trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật. “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ sẽ cho ta thấy rõ cái bản lĩnh riêng không thể trộn lẫn ấy của ông.
Theo “Từ điển Tiếng Việt”, ngất ngưởng được hiểu là ở thế không vững lắc lư, nghiêng ngả như chực ngã. Tuy nhiên hai chữ ngất ngưởng trong bài thơ này của Nguyễn Công Trứ cần được hiểu theo một cách khác, ở đây ngất ngưởng cần hiểu gắn với một cách sống, một thái độ sống.
Có như vậy ta mới có thể hiểu được về con người Nguyễn Công Trứ – một con người có lối sống khác người, bất chấp mọi thế lực ở đời, một lối sống được khẳng định bằng chính tài năng tuyệt vời. Toàn bộ bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa lí giải về cái sự ngất ngưởng của chính mình, mà nó còn được xem như là một lời tự thuật về cuộc đời, là niềm tự hào về con người có công dài, tiền tài, đồng thời cho ta thấy một phong cách lối sống tài tử phóng khoáng của Nguyễn Công Trứ.
Mở đầu bài thơ là lời khẳng định về quan niệm sống của một đấng làm trai: Vũ trụ nội mạc phi phận sự. (Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta). Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình trong cuộc đời.
Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài. Tuyên ngôn này của Nguyễn Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen thuộc trong thơ ông. Vũ trụ giai ngô phận sự(Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta – Nợ tang bồng). Hay trong bài Gánh trung hiếu, Nguyễn Công trứ cũng đã khẳng định: Vũ trụ chức phận nộ(Việc trong vũ trụ là chức phận của ta)
Nói như vậy để ta khẳng định rằng Nguyễn Công Trứ luôn luôn xác định cho mình một quan niệm sống tích cực, đồng thời càng cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của chính tác giả. Chính vì luôn luôn có ý thức về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn Công Trứ không ngại ngùng khẳng định về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:
Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, đồng thời khẳng định tài bộ (tài năng lớn, nhiều mặt) của bản thân với những thực danh: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc Đông. Câu thơ được ngắt nhịp ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một lối nói khẳng định đầy sự tự hào. Tuy nhiên hiện lên trong bài thơ không chỉ là một Nguyễn Công Trứ thiên tài, mà còn là một Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế:
Như vậy đến đây chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định một con người có tài năng thực sự và luôn luôn ý thức được về tài năng của chính bản thân mình. Đây cũng chính là sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình. Một Nguyễn Công Trứ có tài, có thực danh như vậy, ấy mà khi trở về đời thường lại là một tay ngạo nghễ giễu đời:
Cho nên ông không ngại ngùng bày tỏ một cách sống thật khác người, khác đời:
Là một nhà nho, từng là một danh tướng, từng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại sống cuộc sống bình dị nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ lại chẳng bình thường một chút nào: đi vãng cảnh chùa mà: “gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì” phải chăng ông đang bất chấp cuộc sống, đang giễu cợt sự đời, có lẽ hiểu biết như vậy còn phiến diện. Bởi sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình.
Trong trần hoàn mấy mặt làng chơi… Biết mùi chơi chưa dễ mấy người hay ông từng tuyên bố Nếu không chơi thiệt ấy ai bù… Vậy cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó. Câu thơ được Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của tác giả, phải chăng là cười cho sự khen chê của thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một điều thật đơn giản.
Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua mà thôi. Điều này chỉ có được khi người ta có bản lĩnh tự tin về tài năng của mình. Đó cũng chính là cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng túng, hiếm thấy của ông. Chính vì vậy mà ông có được cuộc sống thanh cao vui vẻ:
Câu thơ được ngắt nhịp hai, kết hợp với lối diễn đạt trùng điệp tạo cho câu thơ chậm rãi, qua đó lột tả được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ. Thái độ sống như vậy của ông có được từ con người luôn tự tin vào bản thân mình, luôn ý thức được bản thân. Sự phô bày bản ngã được bộc lộ rõ nét một cách cực độ ở khổ thơ cuối:
Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu bài thơ. Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật… của đời Hán, Tống bên Trung Quốc.
Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình một cách đĩnh đạc hào hùng. Cũng có thể xem đó là những lời nói đầy tự hào về bản thân của chính tác giả. Để từ đó Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ tuyên bố: Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Như vậy đến đây hẳn chúng ta đã hiểu cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đó chẳng phải là cái gì khác mà chính là thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản thân của mình, là bản lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh trung hiếu… Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ. Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn Công Trứ – phong thái ngất ngưởng.
Phân tích Bài ca ngất ngưởng – Mẫu 12Nguyễn Công Trứ là một người thông minh, tài hoa, có cá tính nhưng cuộc đời làm quan nhiều thăng trầm. Ông đã để lại cho lớp thế hệ sau nhiều sáng tác độc đáo bằng chữ nôm và có thể nói hát nói là thể loại ông ghi dấu nhiều thành công nhất. Trong thể loại hát nói, “Bài ca ngất ngưởng” có thể xem là một trong số những sáng tác tiêu biểu nhất của ông. Tác phẩm đã thể hiện rõ bản lĩnh cá nhân của nhà thơ đồng thời gợi lên trong mỗi người những bài học có giá trị sâu sắc.
Có thể thấy, “ngất ngưởng” chính là cảm hứng chủ đạo bao trùm và xuyên suốt bài thơ. Với bốn lần xuất hiện trong tác phẩm, từ láy “ngất ngưởng” mang nhiều ý nghĩa độc đáo. Xét về nghĩa đen, có thể thấy đó là một từ láy dùng để diễn tả độ cao ở trạng thái không vững, chực đổ nhưng không đổ. Song, ở bài thơ, “ngất ngưởng” còn mang một ý nghĩa khác, đó chính là lối sống, là thái độ sống của Nguyễn Công Trứ. Để rồi, toàn bộ tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” sẽ đi sâu làm rõ phong thái ngất ngưởng ấy của nhà thơ.
Đoạn thơ mở đầu tác phẩm “Bài ca ngất ngưởng” đã cho thấy sự ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ khi ở chốn triều quan.
Ngay trong câu thơ mở đầu, việc sử dụng những câu thơ chữ Hán đã gợi ra sự trang trọng, rắn rỏi, qua đó khẳng định được lí tưởng cao đẹp của nhà thơ: Thân làm trai đứng giữa trời đất, không có việc gì nằm ngoài vòng trách nhiệm của bản thân.
Có thể thấy đây chính là lí tưởng chung của những người đi theo con đường Nho học và Nguyễn Công Trứ cũng không phải là ngoại lệ. Nhắc đến lí tưởng đó chính là cách để nhà thơ tái hiện lại nhiệt huyết của mình khi quyết định bước “vào lồng”. Và để rồi, từ lí tưởng, từ sự khẳng định vai trò của mình, Nguyễn Công Trứ đã không ngại ngần khoe tài năng, khoe danh vị của mình.
Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ là người văn võ song toàn, điều đó thể hiện rõ nét qua việc sử dụng các cụm từ “Thủ khoa”, “thao lược”. Thêm vào đó, bằng việc sử dụng hàng loạt từ ngữ Hán Việt cùng biện pháp liệt kê, Nguyễn Công Trứ đã khéo léo điểm lại hàng loạt các chức quan, danh vị mà mình đã từng đảm nhiệm: Tham tán, Tổng đốc, Đại tướng, Phủ doãn,… Điệp từ “khi” đã tạo nên nhịp điệu dồn dập cho các câu thơ, làm cho cả đoạn thơ như một thước phim quay lại những mốc son trong sự nghiệp của tác giả. Đặc biệt, tác giả đã nói về tài năng, danh vị của mình bằng tất cả những gì trang trọng và tự hào nhất. Tuy nhiên, sự khoe tài năng, danh vị ấy của Nguyễn Công Trứ không phải là tự cao, tự đại, khoe khoang hợm hĩnh mà nó dựa trên tài năng và sự nghiệp của chính bản thân ông. Xét đến cùng, sự khoe tài, khoe danh vị ấy chỉ là cái vỏ bên ngoài để giấu sâu bên trong là một cái tôi ý thức rõ về tài năng, danh vị của bản thân mình.
Không chỉ “ngất ngưởng” khi làm quan, Nguyễn Công Trứ còn thể hiện rõ phong thái ngất ngưởng của mình khi về hưu, sống ở chốn hành lạc.
Hai câu thơ dường như đã vẽ lên trước mắt người đọc dàng ngồi ngất nghểu, khật khưởng của Nguyễn Công Trứ trên lưng con bò vàng được “trang sức” bằng đạc ngựa – một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi nhưng với tác giả ông lấy làm thú vị với việc làm trái khoáy nhiều phần khinh bạc của mình. Và để rồi, sự “ngất ngưởng” của ông được làm rõ hơn ở cảnh ông đi vãn cảnh chùa.
Không dừng lại ở đó, Nguyễn Công Trứ còn là người có quan niệm sống rõ ràng, không quan tâm đến chuyện được – mất, khen – chê.
Với tác giả, chuyện được mất, khen chê trong cuộc sống không phải là mối quan tâm hàng đầu và vì thế ông không quan tâm nhiều đến chuyện đó. Với ông, giữa được và mất, khen và chê không biết cái nào hơn cái nào nên mọi sự được mất ông đều phóng tâm mình coi nhẹ, không “bặm môi bặm miệng” quan trọng hóa vấn đề. Và có lẽ, xuất phát từ quan niệm này nên ông đã lựa chọn cho mình một lối sống tự do, được thỏa chí làm những việc mình muốn.
Có thể thấy, Nguyễn Công Trứ đã lựa chọn cho mình với lối sống thỏa chí với ước muốn của bản thân, coi trọng hiện tại, hiện thế và biết thưởng thức những thú vui có trong cuộc đời như thú hát cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình. Và có lẽ vì thế, ông tự nhận mình là “không Phật, không Tiên, không vướng tục”. Dường như, thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ đã vượt ra ngoài vòng cương tỏa nhưng không thể nghĩ rằng ông đã hoàn toàn khác với mình trước đó. Bởi lẽ, trong Nguyễn Công Trứ vẫn luôn nhất quán.
Sự phóng túng, “ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ mặt dù được biểu hiện ở mức độ cao nhưng trước sau ông vẫn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và luôn luôn quan niệm “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”, vẫn luôn là một bề tôi trung thành.
Như vậy, có thể thấy, “Bài ca ngất ngưởng” đã cho thấy bản lĩnh của Nguyễn Công Trứ nhưng đồng thời cũng gợi lên trong mỗi người những bài học có giá trị, ý nghĩa sâu sắc. Trước hết, mỗi người cần ý thức được vai trò, vị trí của bản thân trong cuộc sống, đồng thời cần có sự ý thức rõ ràng về tài năng của chính mình. Thêm vào đó, phải có một quan niệm sống, lí tưởng sống đúng đắn, phải biết vượt ra khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt để sống một cuộc sống giàu ý nghĩa. Đặc biệt, không được sống nhỏ nhen, ích kỉ, chỉ biết quan tâm đến chuyện được, mất, khen, chê của mình mà quên đi những người xung quanh.
Tóm lại, với những đặc sắc của thể loại hát nói cùng lối nói đậm tính khẩu ngữ, “Bài ca ngất ngưởng” đã giúp người đọc hình dung về Nguyễn Công Trứ với một phong cách sống, một lối sống đầy cá tính và bản lĩnh. Đồng thời, qua đó đã để lại trong mỗi người nhiều suy ngẫm, nhiều bài học quý giá.
Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Bài Người Lái Đò Sông Đà Của Nguyễn Tuân Dàn Ý &Amp; 26 Bài Văn Mẫu Lớp 12 Hay Nhất
Phân tích Người lái đò sông Đàcủa Nguyễn Tuân gồm 26 bài văn mẫu hay nhất kèm theo dàn ý chi tiết và sơ đồ tư duy. Phân tích bài Người lái đò sông Đà các bạn lớp 12 có thêm nhiều gợi ý học tập, trau dồi vốn văn chương của mình, hoàn thiện bài văn để đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới.
I. Mở bài:
Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.
II. Thân bài:
* Khái quát chung
– Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.
* Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông
+ Bờ sông
“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.
Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
“Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.
Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.
→ hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.
+ Ghềnh
ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.
Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.
Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ
→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.
+ Hút nước
Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.
→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.
+ Thác nước
Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
“Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.
→ sự giữ dội của nước sông.
+ Đá
“cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.
từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.
→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người
* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà
Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.
So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.
→ Những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ.
* Đánh giá
– Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.
III. Kết bài:
– Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
…………..
“Người lái đò sông Đà” là một bút ký đặc sắc đầy sáng tạo và tiêu biểu cho phong cách độc đáo của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng tám. Một nhà văn tài hoa, uyên bác, không quản ngại gian lao vất vả để có được những dòng bút ký, đậm cảm giác chân thực, có sức liên tưởng phong phú khiến cho người đọc người nghe muốn được hòa nhập với nhịp động phát triển của đất nước của cuộc đời.
Có thể nói trong nghệ thuật, đến với Nguyễn Tuân đó là đến với sự tìm tòi, khám phá và sáng tạo, bởi chính ông là người sáng tạo lại thế giới. Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường, giản đơn. Cho nên ông đi theo “chủ nghĩa xê dịch” và lấy nó làm đề tài cho các tác phẩm của mình, phải đi thì mới có thể viết lên những tác phẩm có giá trị được.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là kết quả của cuộc hành trình ngược về miền Tây Bắc trong giai đoạn năm 1958-1960 đầy trải nghiệm sâu sắc của tác giả và được in lần đầu trong tập tùy bút Sông Đà (1960). Dòng sông Đà quanh co, uốn lượn dọc qua các triền núi, dòng nước thì chảy xiết với độ dốc lớn. Chính đặc điểm này đã tạo cho con sông một vẻ đẹp kỳ thú, rất hoang sơ và kỳ vĩ. Hình ảnh con sông Đà hung bạo, dữ dằn mà trữ tình, thơ mộng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa, đầy nghệ sĩ của ông lái đò trên dòng Đà giang.
Trên thực tế, hình ảnh con sông Đà cũng đã được nhiều nhà văn, nhà thơ chọn làm đề tài và khắc họa lên vẻ đẹp của nó, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà ấy mới hiện ra chân thực và đầy những điều mới mẻ mà chưa từng có ở bất kỳ một tác phẩm nào. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên với vẻ vừa hung bạo, dữ dội nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang một tâm địa xảo quyệt, mưu mô của thứ kẻ thù số một, tất cả như muốn cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” mà chúng bày ra. Không dừng lại ở đó, nước ở con sông Đà này cũng “ reo như đun sôi lên một trăm độ… vẫn mai phục hết trong lòng sông ”. Nguyễn Tuân còn miêu tả một cách sống động rằng có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng lại “ nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng ngay sau đó, khi sự hung hãn, dữ tợn kinh người trôi qua, nó lại hiện lên với cả vẽ trữ tình, thơ mộng đến khó tin. Tác giả còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông lúc ở những đoạn xuôi dòng, không những thế ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng bỗng trở lên mềm mại, uyển chuyển và mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “ Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Với việc so sánh dòng sông Đà “như một áng tóc trữ tình”, tác giả đã phác họa dòng sông hiện lên với cái vẻ kiều diễm, thướt tha của một người phụ nữ. Thông thường người ta sẽ dùng chữ “áng” để chỉ những tác phẩm nghệ thuật, vậy mà ở đây Nguyễn Tuân lại dùng nó để chỉ sông Đà. Có thể thấy trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con sông Đà ấy giống như một tác phẩm nghệ thuật mà tạo hoá đã tạo ra.
Sông Đà không chỉ đẹp ở dáng hình, ngay cả ở màu nước cũng mang một vẻ đẹp riêng. Tác giả đã quan sát dòng sông ở những thời điểm và không gian khác nhau. Vào mùa xuân thì dòng nước xanh như ngọc bích, vừa trong xanh vừa óng ánh. Nhưng khi thu sang nước sông lại chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa. Bằng việc miêu tả cụ thể từng chi tiết với những so sánh độc đáo con sông Đà hiện lên vừa đẹp, vừa đa dạng và qua đó mới thấy được sự hiểu biết sâu rộng cùng khả năng quan sát tinh tế của nhà văn.
Cũng chính trong cái vẻ hung tợn, dữ dằn và cái đẹp đầy trữ tình, thơ mộng ấy của đất trời thiên nhiên, thì hình ảnh ông lái đò xuất hiện thật dữ dội, phi thường giống như một người nghệ sĩ. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu cam go “một mất, một còn” với những cái thác nước hung dữ, lúc này Nguyễn Tuân cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền của mình một cách chủ động và thuần thục giống như một người nghệ sĩ. Với đoạn văn miêu tả cận cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp, thật oai hùng: “ Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy ”. Nhà văn Nguyễn Tuân đã tái hiện lại khung cảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng, du dương không chệch một nốt.
Hình ảnh của người lái đò ấy dường như cũng chính là sự hiện thân của tác giả. Với Nguyễn Tuân thì ông không thích những thứ cũ mèm, tầm thường, giản dị thì với người lái đò cũng vậy, ông cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm, đầy kịch tích với thác nước dữ dội mà chẳng ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả, bình lặng.
Thành công của Nguyễn Tuân đó là sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập trong cùng một sự vật, điều này là một sự mới mẻ đầy sáng tạo. Con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, nó là một kẻ thù nhưng đồng thời cũng chính là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, con sông không chết cứng mà nó vẫn vận động một cách mạnh mẽ, sôi nổi bằng những từ ngữ, câu văn gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan của người đọc. Sự xuất hiện của ông lái đò cũng thế, hiện lên một cách sinh động, rõ nét và sắc sảo. Đối với Nguyễn Tuân mà nói thì “ đã là văn thì trước hết phải là văn ”. Đã là văn thì đầu tiên là phải đẹp, phải trau chuốt. Và cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh thiên nhiên và con người lúc này đây đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu thông qua ngòi bút tài ba của Nguyễn Tuân.
Có thể nói tác phẩm tùy bút “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển mình lớn trong phong cách sáng tác của Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, ông luôn đi tìm đề tài cho tác phẩm của mình bằng cách quay về với quá khứ, ông luôn viết, tìm hiểu về một thời vang bóng đã qua. Qua đó, người đọc có thể dễ dàng nhìn thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân đó là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang mang khí phách của kẻ “ nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” ấy là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều là những khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng, Nguyễn Tuân lại tìm thấy cái chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi, thân thuộc ở ngay chính những công việc bình thường mà họ đang làm.
Với “Người lái đò sông Đà” thì ông lái xuất hiện trước mắt chúng ta như một người nghệ sĩ tài hoa, trí dũng song toàn. Qua đó, Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục, lòng biết ơn những con người đã góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc phác họa lại vẻ đẹp của sông núi Tây Bắc cùng với hình ảnh của người lái đò, Nguyễn Tuân đã kết hợp những hiểu biết, những kiến thức của mình từ nhiều ngành nghệ thuật khác nhau như: hội họa, điêu khắc, âm nhạc, điện ảnh, … Tất cả mọi cảnh vật, mọi sự việc như hiện lên trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Tác giả đã miêu tả chi tiết, sinh động, cụ thể đến mức khiến cho người đọc cảm tưởng như mình đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, với dòng sông quái ác, đồng thời cũng thấy được từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và hình ảnh một con sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta gọi Nguyễn Tuân là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì ông là một người có vốn cũng như nguồn tri thức về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… khổng lồ. Tất cả các kiến thức này cũng thường được thể hiện, tuôn trào dào dạt trong những tác phẩm của ông, và qua “Người lái đò sông Đà” ta lại càng thấy rõ hơn về điều này.
Khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của Nguyễn Tuân thật phong phú, đa dạng. Mỗi từ ngữ, mỗi câu văn khi đưa vào các trang viết dường như đã được chắt lọc, gọt giũa một cách cẩn thận. Ông cũng khéo léo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo, chính điều này đã đóng góp vào sự đa dạng ngôn ngữ Việt Nam. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi mang vẻ thô kệch, đời thường, mộc mạc nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Ông không chỉ viết lên những trang văn tài hoa, những tác phẩm đặc sắc mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được những âm hưởng trong mỗi đoạn văn.
Nguyễn Tuân đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một miền quê hương của Tổ quốc. Qua đó, ông đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết, sự trân quý đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước sâu nặng. Thực sự chính những tác phẩm văn chương đặc sắc này của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Hoàn cảnh lịch sử diễn ra đó là khi cả nước rộn ràng lên đường theo tiếng gọi của “tâm hồn Tây Bắc” để có thể xây dựng lại một miền quê của Tổ quốc. Lúc bấy giờ có biết bao nhà văn, nhà thơ lúc này đây dường như cũng đã thực hiện quá trình lột xác để đến với cách mạng. Trong đó không thể không nhắc đến người nghệ sĩ yêu nước Nguyễn Tuân được ví như một cây độc huyền cầm của nền văn học Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân đã sáng tác ra tác phẩm “Người lái đò sông Đà” để có thể thể hiện được rõ nét và vô cùng sâu sắc phong cách nghệ thuật độc đáo của ông.
Có thể nói khi đến với nghệ thuật, thì chính đối với Nguyễn Tuân là đến với sự tìm tòi và sáng tạo, bởi vì chính nhà văn là người sáng tạo lại thế giới. Tác giả Nguyễn Tuân sợ mình của ngày hôm nay dường như cũng giống với mình của ngày hôm qua, ông như sợ sự trùng lặp tầm thường. Cho nên ông đã lấy “chủ nghĩa” xê dịch “làm đề tài cho tác phẩm, phải đi thì mới có thể viết lên các tác phẩm có giá trị được.
Hình ảnh con sông Đà cũng được nhiều nhà văn, nhà thơ khắc họa, nhưng phải đến với Nguyễn Tuân thì con sông Đà mới hiện ra chân thực và vô cùng cảm động. Với ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà hiện lên vừa hung bạo nhưng cũng vừa trữ tình biết bao nhiêu. Con sông Đà như còn mang tâm địa xảo quyệt của thứ kẻ thù số một, tất cả như cũng có thể cướp đi mạng sống của bất cứ kẻ nào lỡ sa chân vào “thạch trận”…” không dừng lại ở đó thì nước sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ…đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”. Nguyễn Tuân còn miêu tả có khi thấy chiếc thuyền nào nhô vào thì chúng “nhổm cả dậy để vồ lấy”… Thế nhưng chính cái hung hãn dữ tợn ấy vẫn không làm mất đi được nét trữ tình ở sông Đà. Nhà văn còn miêu tả nổi bật lên được hình ảnh con sông ở những đoạn xuôi dòng, không những thế thì ngòi bút Nguyễn Tuân bỗng trở nên mềm mại, thật uyển chuyển, mang đậm chất thơ với đoạn miêu tả: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”…
Chính trên con sông ấy, hình ảnh ông lái đò xuất hiện, dữ dội và phi thường. Khi đứng trong một cuộc chiến đấu “một mất, một còn” với những cái thác nước, tác giả Nguyễn Tuân lúc này cũng đã cho ta thấy được cái tài hoa, sự trí dũng tuyệt vời của ông lái đò. Hình ảnh của người lái đò sông Đà cũng chính là một hiện thân của tác giả, ông như cũng chỉ thích lao vào những cuộc chiến đấu nguy hiểm với thác nước dữ dội mà dường như cũng không ưa xuôi thuyền trên dòng sông êm ả…
Sử dụng giọng văn thật tự nhiên và phóng túng khi miêu tả hai trạng thái đối lập của cùng một sự vật là một thành công của Nguyễn Tuân. Hình ảnh con sông Đà vừa trữ tình vừa hung bạo, đồng thời con sông Đà cũng chính là một kẻ thù nhưng lại là một cố nhân. Chính dưới ngòi bút tác giả, con sông không chết cứng mà vận động một cách mạnh mẽ, thêm với đó có một sự sôi nổi bằng những từ ngữ gợi hình ảnh, tất cả như đã tác động mạnh vào giác quan người đọc. Hình ảnh của ông lái đò cũng thế cũng xuất hiện một cách sinh động, thể hiện một sự rõ nét và sắc sảo… Đối với nhà văn Nguyễn Tuân thì “đã là văn thì trước hết phải là văn”. Đầu tiên đã là văn phải đẹp, phải trau chuốt. Và đối với cái đẹp ấy đã chi phối cách nhìn của tác giả Nguyễn Tuân như đứng trên toàn bộ tác phẩm. Hình ảnh con người và sự vật lúc này đây cũng lại thông qua ngòi bút Nguyễn Tuân, đều được khai thác trên phương tiện mĩ thuật và tài hoa nghệ sĩ biết bao nhiêu.
Qua bài tùy bút thì nét đẹp sông Đà được đánh giá chính là một công trình dày công sáng tạo của tạo hóa. Con sông Đà như cũng vừa hùng vĩ vừa nên thơ. Nó đẹp từ dáng dấp đến màu sắc, với những câu văn miêu tả dòng nước, tốc độ chảy của con sông Đà mới đẹp làm sao. Đó cũng chính là nguồn cảm hứng của bao nhiêu văn, nghệ sĩ. Nước của con sông Đà khi đến mùa xuân dòng xanh ngọc bích, còn với mùa thu thì nước sông Đà dường như cứ lừ lừ chín đỏ giống như da mặt người bầm đi vì rượu bữa”. Hình ảnh con sông ấy đối với tác giả không chỉ đơn thuần là một cảnh đẹp thiên nhiên mà nó cũng thật gợi cảm. Con sông Đà như cũng đã gây nên nỗi nhớ da diết cho những ai đã từng một lần gặp gỡ rồi lại đi xa. Khi gặp lại sông Đà, tác giả Nguyễn Tuân như cũng cảm thấy tâm hồn lâng lâng vui sướng như gặp lại cố nhân mà phải thốt lên: “Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”.
Cũng chính trong cái đẹp đẽ, một cái đẹp như thật thơ mộng của đất trời thiên nhiên, hình ảnh con người xuất hiện như một nghệ sĩ tài hoa. Ông lái đò sông Đà điêu luyện điều khiển con thuyền một cách chủ động và thuần thục nhất giống như một người nghệ sĩ. Hình ảnh ông lái đò bao giờ cũng đứng trên thác sóng dữ dội mà bắt chúng phải quy hàng. Với đoạn văn miêu tả cảnh ông lái đò vượt thác thật đẹp: “Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chèo về phía cửa đá ấy”. Nhà văn Nguyễn Tuân miêu tả hình ảnh ông lái điều khiển chiếc thuyền cứ như một nhạc sĩ đang kéo đàn violon thật hay, thật nhịp nhàng không chệch một nốt.
Có thể nói tác phẩm “Người lái đò sông Đà” là một bước chuyển lớn trong phong cách Nguyễn Tuân. Ở trước cách mạng, nhà văn Nguyễn Tuân lúc đó cũng thường đi tìm đề tài cho tác phẩm bằng cách quay về với quá khứ. Nguyễn Tuân luôn viết, tìm hiểu với một thời vang bóng đã qua. Người đọc có thể dễ dàng nhận thấy được nhân vật của Nguyễn Tuân là những Huấn Cao, nhân vật quản ngục mang tâm trạng của kẻ có phí phách “nào biết trên đầu có ai”. Tất cả các nhân vật “vang bóng một thời” là những vị anh hùng ngang dọc, họ đều khinh bạc đến điều. Thế nhưng sau cách mạng thì nhà văn Nguyễn Tuân đã tìm thấy chất tài hoa nghệ sĩ ở những con người lao động hết sức bình dị, gần gũi nhất ở ngay chính trong các công việc bình thường mà họ đang làm.
Với tác phẩm “Người lái đò sông Đà” thì người lái xuất hiện trước mắt chúng ta như những người nghệ sĩ tài hoa có một trí dũng song toàn. Nguyễn Tuân cũng đã miêu tả hình ảnh người đời thường lái đò, Thêm với đó là Nguyễn Tuân đã thể hiện tấm lòng trân trọng, sự cảm phục những con người góp phần vào công cuộc xây dựng Tổ quốc. Chính trong việc tái hiện lại hình ảnh sông núi Tây Bắc và thêm với đó là hình ảnh của người lái đò, tác giả Nguyễn Tuân đã kết hợp nhiều phương tiện của nhiều ngành nghệ thuật khác nhau trong tác phẩm của chính mình như: hội họa, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc… Tất cả mọi vật, mọi sự như hiện ra trước mắt ta sừng sững và sinh động biết bao nhiêu. Miêu tả đoạn “Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa cả một chân trời đá”. Con sông Đà còn có âm thanh sóng vỗ vào đá, vào mạn thuyền thế rồi những con sóng dậy lên thành thác núi. Đọc tác phẩm độc giả giống như đang tận mắt chứng kiến cuộc vật lộn giữa ông lái với thác nước, đồng thời cũng lại chứng kiến từng đoạn sông dữ tợn, lởm chởm những đá ngầm, đá nổi và cả những đoạn sông êm ả, trữ tình biết bao nhiêu.
Chẳng phải ngẫu nhiên mà người ta lại coi Nguyễn Tuân từng được mệnh danh là nhà văn của sự tài hoa và uyên bác. Vì vốn cũng như nguồn tri thức khổng lồ của ông về lịch sử, khoa học, địa lí, sinh học… thật lớn. Tất cả các kiến thức này cũng thường được tuôn trào dào dạt trong tác phẩm của ông. Thể hiện rất rõ trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” thì Nguyễn Tuân cũng đã đưa ta đến với một miền quê hương Tổ quốc. Vị trí sông Đà, rồi lịch sử sông Đà đã được Nguyễn Tuân giới thiệu bằng những trang viết đầy tính uyên bác, tài hoa.
Nói riêng về khả năng diễn đạt và vốn ngôn ngữ của tác giả Nguyễn Tuân thật phong phú. Cứ mỗi từ ngữ khi đưa vào câu văn dường như đã được chắt lọc, gọt giũa cẩn thận. Nguyễn Tuân như cũng đã khéo sáng tạo nên nhiều từ ngữ mới lạ, độc đáo. Giọng văn của Nguyễn Tuân đôi khi có vẻ thô kệch, nó dường như cũng đã dàn trải nhưng lại hết sức cô đúc và tự nhiên. Tác giả không chỉ viết lên những trang văn tài hoa mà còn khiến cho người đọc cảm nhận được âm hưởng trong mỗi đoạn văn.
Tác giả đã viết về người lái đò sông Đà, cũng như viết về một vùng quê hương Tổ quốc thì nhà văn Nguyễn Tuân đã thể hiện nguồn xúc cảm yêu thương tha thiết đối với người lao động và thêm với đó là tình yêu thiên nhiên đất nước. Thực sự chính văn chương của ông đã mang đến cho chúng ta một vẻ đẹp tri thức tài hoa, uyên bác.
Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại Việt Nam. Trước năm 1945, ông ghi đậm dấu ấn trong lòng đọc giả với tập “Vang bóng một thời” và sau khi Cách mạng tháng Tám thành công ông vẫn có những tác phẩm mới mang những nét sáng tạo của chính mình. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu cái đẹp, ông luôn khám phá ra mọi góc cạnh của vẻ đẹp trên thế giới này. Con người và cảnh vật thiên nhiên khi vào văn chương của ông như hoá thành những công trình nghệ thuật độc đáo mà kì vĩ.
Tác phẩm “Người lái đò sông Đà” được rút ra từ tập tùy bút Sông Đà được ông sáng tác vào năm 1960. Tác phẩm này là kết quả của một chuyến đi đầy gian nan mà vô cùng hứng khởi của nhà văn về miền Tây Bắc đầy hiểm trở. Trong đoạn trích, hình ảnh con sông Đà hiện lên quanh co, uốn lượn dọc những triền núi. Sông Đà có những dòng nước chảy xiết cùng độ dốc lớn. Chính cái nét khác biệt ấy đã tạo nên cho nó một vẻ đẹp hoang sơ mà hùng vĩ. Bởi cái sự hung bạo nhưng trữ tình ấy, sông Đà lại làm bật lên vẻ đẹp tài hoa của người lái đò trên sông.
Ngay từ những câu mở đầu, nhà văn đã dẫn dắt độc giả cuốn theo cảm giác sợ hãi nhưng đê mê, vui thú với bức tranh một con sông Đà hung dữ, bạo tợn hiện lên. Điều ấy đã hiện rõ ngay trong những dòng miêu tả đầu tiên như “đá bờ sông dựng vách thành”. Nhà văn đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để miêu tả những vách đá nơi bờ sông ấy giống như những thành trì vững trãi, kiên cố, ẩn giấu trong đó biết bao nhiêu bí mật và sự nguy hiểm. Càng đọc, càng đắm chìm vào những dòng văn của ông thì độc giả lại càng cảm thấy thích thú với những cách ví von và dùng từ miêu tả về dòng sông Đà. Nhà văn đã dùng ngôn từ để vẽ ra con sông ấy, mặt sông thường “đúng ngọ” mới có mặt trời. Và khi đó thì các vách đá như “chẹt lòng sông như một cái yết hầu”, rồi “có quãng tưởng như cn hươu, con nai nhảy từ bờ này qua bờ kia”. Tác giả đã thể hiện những liên của mình tưởng chừng như vô ý, tưởng chừng như ngẫu nhiên hiện ra thế nhưng nó lại rất hợp lý, đấy là cái tài tình của ông. Ví như động từ “chẹt”, nó giống như từ dùng trong ngôn ngữ văn nói thế nhưng khi đặt với hình ảnh “như một cái yết hầu” thì lại vô cùng ăn khớp và không có từ nào có thể thay thế được. Vẻ đẹp hùng vĩ, dữ dội của dòng Đà giang còn được thể hiện ở cái cảm giác thấy lạnh của nhà văn khi đi qua vào mùa hè. Cái cảm giác ấy vừa cho thấy không khí nơi đây, vừa tạo ra một khung cảnh đầy tráng lệ, hùng vĩ với các vách đá dựng đứng khiến con người cảm thấy nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la.
Chính cái sự hung bạo của dòng sông Đà ấy đã làm nền để tôn vinh lên vẻ đẹp trữ tình và hình tượng của người lái đò. Cảnh hung bạo của dòng sông được khắc họa đậm nét ở mặt ghềnh Hát Loóng. Ông đã miêu tả dòng sông phải có đến hàng ngàn cây số là “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió”. Chỉ một câu nhưng từ “xô” được lặp lại tới ba lần và một loạt từ với thanh sắc, điều này khiến độc giả cảm thấy cảm giác như sóng, gió và nước đang tạt thẳng vào người, mỗi lúc một cao, một mạnh và liên hồi hơn. Qua đây, chúng ta cảm nhận được rõ hơn bao giờ hết cái sức mạnh của thiên nhiên sao mà khủng khiếp, lạnh lùng đến vậy. Nó “gùn ghè”, hầm hè y như những con thú hoang bạo tợn, đầy hung dữ. Nó đang giơ nanh vuốt như sẵn sàng thách thức với con người.
Vẻ đẹp hung bạo ấy còn được thể hiện ở nhưng cái “hút nước” khổng lồ ở quãng sông Tà Mường Vát. Dưới lăng kính của nhà văn Nguyễn Tuân, xoáy nước giống “như những cái giếng bê tông” được thả xuống làm móng cầu. Ở đây, ông dùng biện pháp nhân hoá, biến cái xoáy nước ấy thành con người biết thở và biết kêu. Sự ví von như một cái cống bị sặc thật sinh động, hấp dẫn. Hình như chưa có một nhà văn nào lại có thể tưởng tượng và so sánh những hình tượng này với nhau một cách độc đáo như Nguyễn Tuân đã làm. Có thể nói nhờ ông mà dù nhiều người chưa từng được tận mắt nhìn thấy con sông Đà nhưng vẫn cảm nhận được ở khúc sông đó hiểm nguy đến nhường nào. Nó có thể nuốt chửng mọi thứ nên không có một con thuyền nào dám tới gần nếu như không muốn bị hút và dìm xuống dòng sông.
Đặc biệt ở nơi khúc thác sông Đà, cái vẻ dữ dội, đầy hiểm ác ấy đã được tác giả vạch trần một cách rõ nét. Ông đã miêu tả bằng những âm thanh vô cùng mạnh mẽ, quyết liệt như tiếng “réo gần mãi lên, réo to mãi lên”. Ông nghe tiếng nước như có lúc đang “oán trách”, có khi lại “van xin” hay lại đầy “khiêu khích”. Có lúc nó lại rống lên như “một ngàn con trâu mộng” đang vật lộn trong lúc rừng cháy. Không những vậy, đá trên sông Đà như hợp lại thành “chân trời đá” mênh mông. Chúng mang nhiều dáng vẻ khác nhau như “ngỗ nghịch”, “nhăn nhúm”, “méo mó”… Tác giả đã dùng nhiều tính từ tả người để miêu tả khiến cho những hòn đá vô tri ấy trở nên có tâm hồn. Bởi thế mà độc giả cũng cảm nhận được sự bướng bỉnh, bất cần của đá. Đến đây chúng ta thấy được bằng trí tưởng tượng phong phú của mình thì tác giả đã biến sông Đà thành một “loài thuỷ quái khổng lồ” đầy độc ác, nguy hiểm.
Dòng sông Đà ấy không chỉ mang cái đẹp hùng vĩ, hung bạo và dữ dội mà nó còn mang trong mình vẻ đẹp trữ tình thơ mộng đầy dịu dàng, e ấp. Nét đẹp thuỳ mị như thiếu nữ mới lớn ấy được Nguyễn Tuân cảm nhận từ nhiều góc cạnh, điểm nhìn ở những không gian và thời gian khác nhau. Với ông, dòng sông Đà từ trên cao nhìn xuống uốn lượn như áng tóc mây của người con gái vùng Tây Bắc xinh đẹp, kiều diễm “tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn khói núi Mèo đốt nương xuân”. Khi miêu tả, ông cũng không quên miêu tả chi tiết màu nước thay đổi theo từng mùa của dòng sông như mùa xuân dòng sông “xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ”. Không những thế trong trí tưởng của ông thì có lúc sông Đà nhẹ nhàng “như một cố nhâ”. Ông còn thấy được dòng sông mang “màu nắng tháng ba Đường thi” với bờ sông đầy những chuồn chuồn và bươm bướm bay lượn. Tác giả đã không quên mô tả hai bên bờ sông như nhuộm màu cổ tích, miêu tả từ xa tới gần, từ khái quát đến chi tiết. Cả dòng Đà giang giờ đây còn mang trong mình những nỗi niềm hoài niệm xưa cũ.
Bên cạnh hình ảnh con sông Đà là hình ảnh nhân vật người lái đò. Nếu như thiên nhiên càng dữ dội bao nhiêu, càng bao la thì lại càng tôn lên vẻ đẹp tài hoa, đức độ và trí tuệ của người lái đò. Người lái đò ấy là đại diện cho những con người lao động chăm chỉ, cần cù, kiên trì mạnh mẽ và can đảm. Phẩm chất tốt đẹp của người lái đò ấy đã được khắc họa một cách rõ nét thông qua khung cảnh vượt thác sông Đà. Trước cái dòng sông đầy nguy hiểm ấy, người lái đò phải giữ sự tỉnh táo và vững tâm mới có thể vượt qua được ma trận với những vòng thách đấu với dòng sông. Trước cái “thạch trận” ấy, ông lái đò vẫn chẳng hề có sự nao núng. Ông vẫn “giữ lấy mái chèo cho khỏi bị hất lên”. Mặc dù mặt nước có hò reo, hùa nhau để bẻ gãy cán thuyền còn sóng nước thì như những “quân liều mạng” lao vào “đá trái thúc gối vào bụng và hông thuyền”. Mặc dù nước bám lấy như “đô vật” muốn vật ngửa ông ra, còn sóng thì như bóp chặt lấy hạ bộ ông đò. Và rồi dù có bị thương đến mức “mặt méo bệch đi” thì ông vẫn cương quyết không đầu hàng. Ông “cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt buồng lái” và chỉ huy chiếc thuyền băng băng vượt qua mọi “trùng vi thạch trận”.
Qua truyện ngắn “Người lái đò sông Đà” tác giả đã xây dựng hình tượng của nhân vật người lái đò bằng nhiều nghệ thuật đặc sắc ở nhiều lĩnh vực như binh pháp, âm nhạc, võ thuật, thể thao… Đồng thời bằng các biện pháp tu từ nhân hoá, so sánh, cùng câu văn ngắn gọn, súc tích đã khắc hoạ thành công nhân vật lái đò và dòng sông huyền thoại. “Người lái đò sông Đà” thực sự là một tác phẩm vô giá. Nó đã thôi thúc mọi độc giả sau khi đọc xong đều muốn xách ba lô lên và đi tới thám hiểm vùng Tây Bắc, để được thu trọn vào tầm mắt cái vẻ đẹp hùng vĩ, đầy bạo tàn nhưng lại trữ tình của dòng sông này. Đồng thời, chúng ta có thể cảm nhận được ông lái đò để thêm yêu, thêm hiểu những con người gan dạ nơi đây.
Nguyễn Tuân là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là mỗi bài ca về cái đẹp của cuộc sống, của con người, với tư tưởng, tình cảm gắn bó với đất nước quê hương. Bằng ngòi bút độc đáo, uyên bác, tài hoa, cùng lòng yêu thiên nhiên sâu sắc và những khám phá mới mẻ trong chuyến đi trải nghiệm thực tế ngược dòng Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã viết nên những trang bút ký đặc sắc, tái hiện một cách độc đáo vẻ đẹp kỳ vĩ, thơ mộng của sông Đà cũng như thiên nhiên hùng vĩ núi rừng Tây Bắc qua tùy bút “Người lái đò sông Đà”. Giữa thiên nhiên bao la rộng lớn của núi rừng Tây Bắc, nối bật lên là hình ảnh người lái đò sông Đà can trường, dũng cảm, độc hành đưa con đò mưu sinh chiến đấu với con sông Đà.
Tuỳ bút “Người lái đò Sông Đà được trích từ tập “Sông Đà” được sáng tác năm 1960, là thành nghệ thuật đẹp đẽ mà Nguyễn Tuân đã thu hoạch được trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Vắc rộng lớn, xa xôi của Tổ Quốc không chỉ để thỏa mãn tìm những miền đất lãn mà chủ yếu để tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên cùng “thứ vàng mười đã qua thử lửa” ở tâm hồn của những con người lao động nơi đây.
“Người lái đò sông Đà” là một tuỳ bút viết về thiên nhiên và con người lao động vùng Tây Bắc. Nổi bật giữa thiên nhiên núi rừng Tây Bắc là hình ảnh con người, hình ảnh người lái đò dùng cảm, can trường. Với phong cách nghệ thuật rất riêng của mình, khai thác mọi vấn đề dưới con mắt nghệ thuật, đối với Nguyễn tuân, khi đó, lái đò là một nghệ thuật và người lái đò là một người nghệ sĩ.
Người lái đò trên sông đà trong tác phẩm là một ông lão đã hơn 70 tuổi và đã lái đò trên dòng sông đà này đã hơn 15 năm. Có lẽ chính bởi ông đã dành phần lớn thời gian của của mình cho nghề lái đò trên sông nước mà bản thân ông đã trở thành một người lái đò lão luyện “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…”.
Advertisement
Nhân vật người lái đò là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò, và đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở”. Không dừng lại ở đó, Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của mình đối với ông: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng”.
Thật là một cách so sánh “rất văn chương” đầy thú vị và mang đậm phong cách nghệ thuật của Nguyễn tuân. Hình ảnh người lái đò với “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai”, “trẻ tráng quá”.
Ông đã đứng trước những thách thức của con sông Đà với thế lực của thiên nhiên khắc nghiệt như những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt đã trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Và một mình một thuyền, ông đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và hông thuyền.
Có lúc chúng đội cả thuyền lên. Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm dưới dòng sông… Từng chi tiết được tác giả miêu tả chân thực và táo bạo cho thấy sự dữ dội ghê gớm của dòng thác đối với con người và chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng dũng cảm và gan dạ chưa đủ, mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến mức điêu luyện và nghệ thuật. Đối với tác giả Nguyễn Tuân, người lái đò chính là một người nghệ sĩ.
Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có lao đi chứ không lùi lại, không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có mùi gì cả…”.
Rồi lại vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”.
Lại có những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…Thật là một dòng sông đầy hiểm trở, và gian nan cho con người. Thế nhưng, “người lái đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của người cầm lái”…
Qua cách miêu tả đến tột cùng sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân đã ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên, không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái thuyền vượt sông Đà.
Cuộc đọ sức giữa thiên nhiên dữ dội và con người nhỏ bé, trong cuộc chiến đó, con người đã chiến thắng; trở về cuộc sống thanh bình: “Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam…”
Từ đây, cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể cưỡng nổi. Với tác giả, thiên nhiên là chất vàng của tây Bắc còn con người là chất vàng mười đã qua thử lửa. Trong suy nghĩ của Nguyễn Tuân, con người đẹp hơn tất cả, quý hơn tất cả.
“Người lái đò sông Đà” là một áng văn đẹp được làm nên từ tình yêu đất nước say đắm, thiết tha của một con người muốn dùng văn chương để ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ hào hùng, vừa trữ tình, thơ mộng của thiên nhân và nhất là con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc. Hình ảnh người lái đò sông Đã là tiêu biểu cho con người lao động vùng Tây Bắc, dũng cảm, gan dạ, quật cường, luôn kiên trì và hết mình với công việc. Nổi bật nền trên thiên nhiên bao la hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc chính là con người lao động nơi đây.
Nhà văn là người dẫn đường cho người đọc đến với xứ sở của cái đẹp, bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Tuân đã dẫn người đọc đến xứ sở của cái đẹp nơi Tây Bắc, ông đến để tìm chất thơ trong thiên nhiên chất vàng mười trong tâm hồn người dân lao động nơi đây.
Trước hết, đó là vẻ đẹp vừa hùng vĩ mà cũng rất đỗi nên thơ, dịu dàng của thiên nhiên Tây Bắc, của con sông Đà. Cái hùng vĩ dữ dội của sông Đà trước hết là ở đá dựng vách thành. Ngay chỗ này, cách dùng từ của Nguyễn như đã yểm linh hồn cho cảnh vật. Từ “vách thành” gợi cái gì đó âm u, thâm sâu, bí hiểm giống như thành xưa quách cũ, hầm cao hào sâu, giống như một thành trì kiên cố bất khả xâm phạm. Tiếp theo đó, những so sánh ví von gắn với thực tế về cảm giác lạnh khi ngồi dưới khoang thuyền đi khiến cho thiên nhiên, không gian nơi đây tuy hùng vĩ, nhưng lại đầy hoang lạnh, bí hiểm vô cùng. Hùng vĩ của sông Đà còn ở tiếng gầm của thác: “hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gầm ghè suốt năm”, giọng nghe “vừa oán trách, vừa van xin” rồi lại khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”. Đặc biệt là những hút nước như cống bê tông, đầy nguy hiểm rình rập. Con sông Đà hùng vĩ, dữ dội, hung bạo, cái nét hùng vĩ hung bạo ấy của Sông Đà khác hẳn con sông Hương trong văn Hoàng Phủ, sông Hương hùng vĩ, dữ dội nhưng mang nét đẹp mãnh liệt, phóng khoáng như một bản trường ca của rừng già, còn con sông Đà lại mang tâm địa của một loài thủy quái. Để thuần phục nó, chế ngự nó trên trang văn của mình, Nguyễn đã chơi ngông dùng “nước để tả lửa, lấy rừng để tả sông”, từ đó thấy được sức mạnh, cũng như sự ghê gớm, ác liệt của con sông Đà. Nét đẹp dù dữ dội, hùng vĩ của nó cũng đẹp theo một cách rất riêng.
Nhưng bên cạnh vẻ đẹp hùng vĩ dữ dội, con sông Đà còn mang trong nó vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc, bung nở như hoa ban hoa gạo tháng hai, cuồn cuộn mùi khói núi Mèo đốt nương xuân”. Chỉ một chữ áng tóc, ta đã thấy được hết cái tài hoa và màng lọc tâm hồn tinh tế của Nguyễn Tuân, ông luôn nhìn sự vật dưới góc độ văn hóa nghệ thuật, đây chính là minh chứng cho điều đó. Xưa nay người ta chỉ nói áng thơ, áng văn, mái tóc, mấy ai gọi áng tóc bao giờ? Vậy là dưới ngòi bút Nguyễn Tuân, con sông Đà bỗng mang trong nó phẩm giá và cốt cách của một tác phẩm nghệ thuật, không chỉ đẹp mà còn duyên dáng, mềm mại, tràn đầy sức sống, sức xanh, và nhựa sống như đang bừng nở trên mảnh đất của tổ quốc này. Nét trữ tình, thơ mộng ấy, là tất cả tài hoa và nội lực của ngòi bút Nguyễn Tuân dồn lên trang giấy, để từ đó dẫn đường cho người đọc đến xứ sở của cái đẹp.
Nếu trên kia là vẻ đẹp của con sông Đà, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình, thì bên cạnh đó Nguyễn Tuân trong “Người lái đò sông Đà” còn đào sâu để tìm kiếm chất vàng mười trong tâm hồn con người Tây Bắc, mà ở đây có thể thấy rõ nhất là người lái đò. Con sông Đà nhiều khi dữ dằn như muốn ăn tươi, nuốt sống những người chèo đò qua đây, ấy thế nhưng, ông lái Đò ấy vẫn bằng tất cả sức mạnh của mình để chế ngự nó. Ông lái Đò vừa khéo léo, lại vô cùng dũng cảm, đầy mưu lược, tài hoa đã vượt qua được các của tử của con thủy quái này. Ấy thế nhưng, ngay khi vừa ngừng tay chèo, ông lại trở về với cuộc sống giản dị, bình đạm, không hề khoe khoang hay tự hào về chiến tích của mình. Hình ảnh ông lái Đò tay lái ra hoa ấy, qua đó phần nào thể hiện sự vận động trong cách nhìn của Nguyễn Tuân về con người. Trước đó, ông chỉ nhìn thấy cái đẹp ở những con người đặc tuyển, bây giờ ông thấy cả vẻ đẹp bình dị mà lấp lánh của người dân lao động trong cuộc sống mưu sinh, ông đã đi từ chốn tháp ngà nghệ thuật để gần gũi hơn với cuộc sống của nhân dân lao động, hòa nhập với hơi thở cuộc sống mới. Đó cũng là lí do mà văn Nguyễn Tuân trong “người lái đò sông Đà” làm ấm lòng nhiều bạn đọc.
“Người lái đò sông Đà” là một kiệt tác của Nguyễn Tuân, một trang hoa tờ hoa bất ngủ trong dòng chảy văn học Việt Nam, qua đó một lần nữa đóng một dấu triện riêng của Nguyễn vào lịch sử văn học nước nhà.
…………….
Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Đoạn Trích Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt Của Lưu Quang Vũ trên website Fply.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!