Xu Hướng 9/2023 # Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3: Thuyết Minh Về Một Loài Vật Nuôi Dàn Ý &Amp; 48 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3 # Top 11 Xem Nhiều | Fply.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3: Thuyết Minh Về Một Loài Vật Nuôi Dàn Ý &Amp; 48 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3 # Top 11 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3: Thuyết Minh Về Một Loài Vật Nuôi Dàn Ý &Amp; 48 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3 được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Fply.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Đề 3: Thuyết minh về một loài động vật hay vật nuôi ở quê em

I. Mở bài:

Nhiều cách, trực tiếp hoặc gián tiếp. Cứ chọn cái nào thu hút người đọc

VD: Chó là loài vật thông minh và sống tình cảm, thậm chí hơn cả loài mèo nữa.

II. Thân bài:

1. Phân loại:

Chó ta chó tây chó Béc Chihuahua v.v…

Nhưng chủ yếu ta thuyết minh về chó nhà.

2. Cung cấp những tri thức về đặc điểm hình dạng:

– Đặc điểm phát triển cơ thể – không phải là miêu tả như bên trên (mấy ngày mở mắt, biết đi, tự lập, trưởng thành v.v..).

– Đặc điểm sinh sản (lứa, số con 1 lứa v.v…)

– Đặc điểm tổ chức: Bầy đàn/ riêng lẻ v.v…, quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái v.v..

– Đặc điểm sống: Các tập tính, thói quen…

Vd: Chúng thường khoanh vùng sống bằng nước tiểu…

4. Vai trò:

– Là vật nuôi (chỉ rõ ra là vật nuôi như thế nào)

– Là người bạn

– Ngoài ra: Chó đặc vụ, cảnh sát v.v…

Phân tích từng vai trò (tại sao nó lại có thể làm thế, nó làm thế như thế nào)

5. Quan hệ của chúng với con người:

– Thân thiết, trung thành v.v…

6. Mở rộng vấn đề:

– Giải pháp và hướng đi cho việc đối xử với loài vật này.

III. Kết bài: Đánh giá chung và riêng về nó..

Trong cuộc sống, mỗi chúng ta ai cũng cần có những người bạn thân thiết. Sẽ thật cô đơn và buồn tủi nếu không có ai bên ta để chia sẻ mọi thứ. Xã hội ngày càng phát triển, đôi lúc những người bạn của ta không ai có đủ thời gian để gặp gỡ. Chính vì vậy, càng ngày lại càng có nhiều người xem việc nuôi thú cưng là cách để có người bầu bạn. Bản thân em cũng thế, trong gia đình em có nuôi một chú chó và em luôn coi nó như người thân trong gia đình.

Chú chó nhà em có tên là Đốp. Nó thuộc dòng chó Corgi được nhập từ nước ngoài về. Loài chó này có giá thành khá cao từ 12 – 20 triệu tùy con. Chúng là giống chó chăn gia súc có nguồn gốc từ Pembrokeshire, xứ Wales. Tổ tiên là giống chó đuôi cuộn kiểu Bắc Cực. Ở nước ta, những năm gần đây, giống chó này ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc được nhiều người nuôi để bầu bạn. Tuy nhiên, việc chăm sóc chúng khá khó khăn đòi hỏi người nuôi phải có những hiểu biết nhận định và sự quan tâm đặc biệt dành cho chúng.

Chú chó nhà em đã trưởng thành và không còn phát triển quá nhiều như những chú chó nhỏ khác. Thân người dài khoảng 60cm, bốn chân rất ngắn (chưa bằng một gang tay người lớn). Bộ lông màu vàng óng, bốn chân lại màu trắng càng làm cho chúng thêm xinh đẹp hơn. Một đặc trưng nổi bật của chú là đôi tai to, dỏng cao lên, thỉnh thoảng vẫy vẫy cùng với đôi mắt to tròn đen láy như hòn bi ve nhìn rất thông minh khiến chú được mọi người yêu quý vì quá đỗi dễ thương. Chiếc mõm khá dài và màu đen huyền, bên trong là cái lưỡi hồng hào cùng hàm răng thưa không đều nhau rất ngộ nghĩnh. Cái đuôi ngắn ngủn lấp ló sau đám lông dày nhìn mãi chẳng thấy đâu. Chính những nét đẹp rất riêng biệt đó mà không chỉ gia đình em mà những người xung quanh cũng vô cùng yêu quý Đốp.

Khác với giống chó ta, loại chó này khá kén ăn và cần được chăm sóc kĩ lưỡng. Mỗi khi mùa hè đến, em đều mang chú ra tiệm chăm sóc thú cưng để người ta cắt tỉa bớt lông nhằm ngăn không cho thân nhiệt của nó không quá cao, tránh trường hợp bị sốc nhiệt. Hàng tuần cứ đều đặn cuối tuần em đưa chú đi tắm, cắt tỉa bộ móng cho thật cẩn thận, đẹp đẽ, sạch sẽ. Chú ăn thức ăn riêng dành cho thú cưng. Ngoài ra, chú còn rất khoái khẩu với sữa chua và xúc xích. Để chăm sóc tốt loại chó này, chúng ta cần hiểu và nắm được tính cách, thói quen và sở thích để có thể chơi với chúng và nuôi chúng tốt nhất có thể. Chỗ ngủ của Đốp cũng được gia đình em chăm sóc kĩ càng. Chú được ở trong một chiếc cũi sắt màu xanh đẹp đẽ, kèm theo đó là một chiếc đệm, gối và chăn cùng màu. Đều đặn hai tuần một lần, mẹ em thay chăn gối cho chú và mang đi giặt giũ sạch sẽ và diệt khuẩn để tránh bệnh tật.

Corgi là loài chó thông minh và gần gũi với con người. Chú chó nhà em là một minh chứng cho sự thông minh của loài chó này. Không chỉ có chó mà những loài động vật khác đã, đang và sẽ trở thành những người bạn thân thiết của con người. Mỗi chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ động vật nói chung để tạo ra một xã hội văn minh hơn.

Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.

Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khói bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón: Chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhờ chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.

Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.

Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: Chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ….. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phát hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm; chó làm các dịch vụ bảo vệ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ….; chó săn bắt mồi, chim chóc…. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.

Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn …Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thông minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Tuy nhiên theo Pavlop, có thể huấn luyện được một con chó thông minh chứ khó dạy dỗ được nó như con khỉ. Điều đó cho thấy chó là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phát triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể, dấu hiệu lạ từ xa để thông báo cho con người đề phòng.

Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó Ka phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (Đông Nam Á, Tây Nam Á, Đông Á). Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.

Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm dấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đến một loại điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. Đặc biệt chó Béc-giê rất thông minh, khứu giác và thính giác rất phát triển. Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm dấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.

Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều loại chó cảnh như: Chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như lông chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ lông dài và có thể mượt hay xù.

Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này không phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng, chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chải lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh.

Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.

I.Mở bài

– Giới thiệu con thỏ, một loài vật nhỏ bé với vẻ ngoài dễ thương.

II. Thân bài

– Giới thiệu khái quát:

+ Thỏ là loài động vật có vú, được nuôi nhốt, nuôi thả hoặc thỏ hoang sống tự do trong rừng.

+ Thỏ có lông mao dày, thích nghi tốt với điều kiện lạnh, khô.

– Nguồn gốc:

+ Động vật có vú, sinh sống ở nhiều nơi trên thế giới. Loài thỏ lần đầu được con người biết đến ở châu u, khoảng 1000 năm trước công nguyên.

+ Thỏ được phân thành bảy loại.

+ Tuổi thọ của thỏ kéo dài từ 4 – 10 năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày.

+ Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, sống trong các lồng lớn tránh bị đuổi bắt bởi thú ăn thịt.

– Cấu tạo:

+ Là động vật có tứ chi, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng.

+ Hai tai dài, bắt tín hiệu rất tốt. Khi săn mồi, thỏ thường dựng tai để lắng nghe chuyển động âm thanh. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc thân.

+ Mắt thỏ thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng thường, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sinh tồn trên cạn.

+ Mũi thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi.

+ Hàm răng sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do tập tính gặm nhấm.

– Tập tính:

+ Thỏ uống nước sạch và ăn thực vật như bắp cải, cà rốt, cải xanh và các hoa quả có màu xanh lục khác.

+ Thỏ sống trong nhiệt độ mát mẻ, từ 10 – 25 độ là nhiệt độ thích hợp nhất để thỏ phát triển và sinh hoạt.

+ Thỏ thường có tập tính đào hang làm tổ để đẻ con và sinh sống.

– Vai trò:

+ Thỏ vừa được săn bắn hoặc nuôi lấy thịt. Da thỏ dùng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ được đính lên quần áo. Chất thải của thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ dùng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng.

+ Thỏ được nuôi làm thú cưng trong gia đình. Ngoài ra, thỏ được nuôi trong các vườn bách thú để tham quan.

+ Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ là một trong số 12 con giáp.

+ Tuy nhiên, thỏ là một loài gây dịch bệnh cũng như phá hoại mùa màng do tập tính gặm nhấm. Tại Úc, người ta đánh bẫy và tiêu diệt thỏ để tránh ảnh hưởng xấu tới môi trường.

III. Kết bài:

Thỏ vẫn đang là loại động vật quen thuộc được khai thác phục vụ nhu cầu của con người. Nuôi nhốt, kiểm soát số lượng thỏ là cách tốt nhất để duy trì sự sống của loài vật này, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của thỏ tới môi trường tự nhiên.

Với thị hiếu và nhu cầu nâng cao chất lượng cuộc sống của con người ngày nay, nhiều loại động vật tự nhiên được đưa vào nuôi nhốt và khai thác. Không ngoại lệ, loài thỏ đã và đang được con người sử dụng để phục vụ đời sống của mình bởi những đặc điểm hữu ích, thông dụng.

Thỏ là loài động vật có vú phổ biến, được nuôi nhốt, nuôi thả hoặc sống tự do trong rừng. Thỏ có lông mao dày, phù hợp sống ở khí hậu hàn đới, ôn đới. Loài thỏ lần đầu được con người biết đến ở châu u, khoảng 1000 năm trước công nguyên. Thỏ được phân thành bảy loại, điển hình như thỏ rừng châu u, thỏ đuôi bông, thỏ cộc,… Tuổi thọ của thỏ kéo dài từ bốn đến mười năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày. Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, được thuần hóa và được nuôi trong các lồng lớn tránh bị đuổi bắt bởi thú ăn thịt.

Về cấu tạo, thỏ là động vật có tứ chi, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng. Hai tai thỏ dài, bắt tín hiệu rất tốt. Khi săn mồi, thỏ thường dựng tai để lắng nghe chuyển động âm thanh. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc thân. Mắt thỏ thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng thường, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sinh tồn trên cạn. Mũi thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi. Hàm răng sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do tập tính gặm nhấm. Thỏ thường có tập tính đào hang làm tổ để đẻ con và sinh sống.

Thỏ thuộc giống động vật ăn cỏ. Nhu cầu dinh dưỡng của thỏ gồm nước sạch và thực vật như bắp cải, cải xanh và các hoa quả có màu xanh lục khác.Trái với suy nghĩ của nhiều người, thỏ không thường xuyên hay thích ăn cà rốt do thực phẩm này có nhiều đường và quá cứng. Chúng thường sử dụng cà rốt như một công cụ mài răng cửa. Thỏ là loại ưa lạnh, sống trong nhiệt độ mát mẻ, từ 10 – 25 độ là nhiệt độ thích hợp nhất để thỏ phát triển và sinh hoạt.

Thỏ đóng vai trò to lớn trong cả công nghiệp chế biến và ngành thời trang, dược phẩm. Thỏ được săn bắn hoặc nuôi lấy thịt. Da thỏ dùng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ được đính lên quần áo làm tăng vẻ sang trọng cho người mặc. Chất thải của thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ dùng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng. Thịt thỏ được dùng làm thức ăn hoặc ngâm rượu. Những món ăn được chế biến từ thịt thỏ rất hấp dẫn và bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao. Ngoài ra, trong y khoa, thỏ được dùng làm vật thí nghiệm cho các loại vắc – xin hay mẫu thử mỹ phẩm. Tuy nhiên, hành động thử nghiệm trên động vật này đang bị lên án vì quá vô nhân đạo và gây hại tới số lượng thỏ sinh sản tự nhiên trong môi trường.

Về giá trị tinh thần, thỏ là loài vật có vẻ ngoài đáng yêu với bộ lông mềm mại nên thường được nuôi làm cảnh trong vườn bách thú hoặc làm vật nuôi trong gia đình. Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ là một trong số mười hai con giáp tượng trưng cho mười hai năm tuổi. Thỏ biểu hiện cho sự nữ tính, mềm mại, đáng yêu nên thường được lấy hình tượng cách điệu làm quà tặng hay đồ trang trí cho các cô gái. Tuy nhiên, thỏ là một loài gây dịch bệnh cũng như phá hoại mùa màng do tập tính gặm nhấm. Tại Úc, người ta đánh bẫy và tiêu diệt thỏ để tránh ảnh hưởng xấu tới môi trường

Thỏ vẫn đang là loại động vật quen thuộc được khai thác phục vụ nhu cầu của con người. Nuôi nhốt, kiểm soát số lượng thỏ là cách tốt nhất để duy trì sự sống của loài vật này, đồng thời giảm thiểu tối đa tác động tiêu cực của thỏ tới môi trường tự nhiên.

Thế giới xung quanh ta thật đa dạng và phong phú với rất nhiều chủng loại. Theo thời gian, con người dần càng gắn bó với các con vật, coi chúng như những người bạn gần gũi và thân thiện. Một số con vật khác được thuần hóa còn trở thành thú cưng của con người. Trong số đó phải kể đến những chú thỏ vô cùng đáng yêu- loài vật mà em yêu quý nhất.

Các giống thỏ nhà trên thế giới hiện nay đều có nguồn gốc từ thỏ rừng. Thỏ rừng ở châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi họ đến bờ biển Tây Ban Nha vào năm 1000 trước công nguyên. Từ đầu thế kỉ 19 việc nuôi thỏ đã phát triển khắp Tây Âu và được người châu Âu đưa thỏ đi du nhập ở tất cả các nước trên thế giới. Cuối thế kỉ 19 và nhất là đầu thế kỉ 20 các giống thỏ đã thích nghi với điều kiện nuôi nhốt đã được chọn lọc và thay đổi dần về ngoại hình, sinh lý thích nghi với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất phù hợp. Ở Việt Nam, thỏ được nhập vào cách đây hơn một trăm năm và được nuôi khá phổ biến, rải rác trên mọi vùng miền.

Thỏ là loài gia súc tương đối yếu, khá nhạy cảm và dễ có phản ứng cơ thể với những điều kiện thay đổi của môi trường bên ngoài như nắng, mưa, ẩm độ, nhiệt độ, thức ăn, nước uống, tiếng ồn và các ô nhiễm môi trường khác. Loài thỏ khá đặc biệt với một số tập tính như đào hang làm nơi trú ẩn và sinh sản, sống thành bầy và thông thường số cái nhiều hơn đực, thỏ cái thường dùng các vật liệu kết hợp với lông ở bụng để làm ổ trước khi đẻ, thỏ ăn và uống bất kỳ thời gian nào trong 24 giờ , chúng không ăn thức ăn đã dơ bẩn, đã rơi xuống đất,…

Nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đối với thỏ. Khi nhiệt độ thấp hơn 10 độ C thỏ cuộn mình để giảm diện tích chống lạnh, nhưng khi nhiệt độ từ 25- 30 độ C thì chúng sẽ nằm dài soải thân thể ra để thoát nhiệt. Thỏ rất thích điều kiện thông thoáng, gió sự lưu chuyển trong không khí vào khoảng 0.3m/giây là thích hợp nhất. Tuy nhiên nếu gió thổi trực tiếp vào cơ thể thỏ thì chúng có thể bị bệnh viêm mũi và cảm lạnh.

Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, nó có thể ngửi mùi mà phân biệt được con của nó hay con của con khác. Xoang mũi thỏ có nhiều vách ngăn chi chít có thể ngăn chặn được các tạp chất bẩn trong không khí bụi hoặc từ thức ăn. Nổi bật trên bộ lông trắng muốt là chiếc mũi phớt hồng lúc nào cũng ươn ướt như người bị cảm cúm. Cơ quan thính giác thỏ rất tốt. Thỏ rất nhạy cảm với tiếng động dù là rất nhẹ. Khi nghe thấy tiếng động, thỏ rất dễ sợ hãi, do vậy trong chăn nuôi tránh tiếng động ồn ào cho thỏ. Trong đêm tối, đôi mắt tròn xoe sáng lên như hai chiếc đèn pha nên vẫn nhìn thấy mọi vật, do vậy thỏ vẫn có thể ăn uống ban đêm cũng như là ban ngày.

Thỏ là loại động vật đẻ con, mỗi lần sinh đẻ, thỏ cái có thể đẻ từ một đến hai con. Tuổi thọ của một con thỏ có thể lên tới 10 năm hoặc hơn nữa tùy vào điều kiện sinh sống. Thỏ rất ưa những nơi thoáng đãng và khí hậu mát mẻ nên khi chăn nuôi, các hộ trang trại cần chú ý đến yếu tố này. Vào mùa đông, thời tiết lạnh giá, nhiệt độ xuống thấp thì ta cần đảm bảo việc giữ ấm cho thỏ để chúng phát triển bình thường và không bị nhiễm bệnh.

Ngày nay việc nuôi thỏ để lấy thịt hay phục vụ một số nhu cầu khác đã đem lại một nguồn lợi kinh tế không hề nhỏ. Trong đời sống tinh thần, thỏ cũng có vị trí khá quan trọng. Thỏ là biểu tượng của Tây Ban Nha vào thời kỳ La Mã. Trong câu chuyện truyền thuyết Chị Hằng- Chú Cuội, chú thỏ ngọc chính là người bạn thân thiết với chị Hằng nơi cung trăng. Thỏ thường được biết đến trìu mến là con vật cưng của nhiều gia đình.

I. Mở bài: Giới thiệu về loài mèo, con vật gần gũi với chúng ta.

II. Thân bài:

– Đặc điểm:

+ Mèo là động vật 4 chân, thuộc lớp thú, lông dày, nhiều màu khác nhau.

+ Ria mép: Dài.

+ Tai: Có thể nghe âm thanh từ rất xa, nhạy cảm với âm thanh.

+ Mắt: Ban đêm, mắt mèo mở to như trăng rằm, mắt mèo có hình hạt táo.

+ Chân: Cũng như chó thì mèo có móng vuốt dài, bàn chân có đệm thịt dày.

+ Đuôi: Dài nhiệm vụ chính là giữ thăng bằng.

– Tập tính:

+ Mèo thích ấm áp, sợ rét.

+ Mèo rất thích bắt chuột.

+ Mèo rất thích leo trèo, bắt chuột.

+ Loài mèo thích được vuốt ve.

– Vai trò:

+ Con mèo loài vật có ích: Bắt chuột để bảo vệ mùa màng, giữ gìn đồ dùng tránh xa sự phá hoại của chuột.

+ Nhiều người nuôi để làm cảnh với nhiều giống mèo đẹp.

III. Kết bài:Nêu lên được vai trò, lợi ích của loài mèo đối với con người.

Từng ngày trôi, cuộc sống sẽ buồn tẻ biết bao nếu bên cạnh chúng ta không có những người bạn động vật nhỏ. Em rất thích mèo và luôn tìm hiểu về chúng. Mèo là vật nuôi quen thuộc trong các gia đình từ xưa đến nay.

Mèo là động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Trên mình phủ một bộ lông dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau được nuôi ở các nước châu Âu và các nước nước khác. Thời đại phát triển ngày nay thì người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như: mèo tam thể. mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun,… Trên mặt mèo có bộ ria mép, đó chính là trợ thủ đắc lực của mèo.

Những lúc đuổi chuột, chuột chạy vào hang, mèo muốn đuổi theo thì ria mép không được chạm vào cửa hang, còn nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân. Đặt biệt tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, ban đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm.

Loại mèo rất sợ lạnh, nên chúng rất thích ngủ ở những nơi ấm áp, thích cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Do đó vào mùa đông, mèo hay ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo hay nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo rất đặc biệt, khi được chiếu sáng sẽ tổng hợp thành vitamin D, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông, chúng ta hay nhầm tưởng mèo tự làm sạch cho mình. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, dù nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. Thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn thêm cơm, cá và rau. Chân mèo có móng vuốt đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hay vồ mồi thì móng duỗi ra.

Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng họ mèo nhà chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập sau đó lan nhanh sang Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây.

Quả đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng có vẻ ngoài nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và ở phía trước hơi nhô ra, đó là mõm mèo. Trông mèo nhỏ bé thế nhưng hàm răng nó lại có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Kỳ lạ nhất là đôi mắt mèo, đôi mắt trong veo như hai hòn bi ve.

Đồng tử mèo có khả năng co giãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới giãn ra. Thế là mèo ta có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt cực sắc này là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.

Chắc chẳng có em bé nào mà lại không biết đến câu hát: “Meo meo meo, rửa mặt như mèo…” hay “mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước…”. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng “meo meo” của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.

Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy khoái loài mèo lắm rồi, bèn giục: “Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi”. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp: “Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng “tìm hiểu” mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được.

Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt”.

Rồi chị đố chúng tôi kể được tên thật nhiều loài mèo. Hừm, để xem nào. Mèo mun lông đen tuyền từ đầu tới gót này. Mèo mướp với bộ lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng nữa. Có lẽ giống mèo đông đúc nhất, được nuôi phổ biến nhất là mèo tam thể. Loài này lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn với nhau. Nghe chúng tôi kể, chị gật gù: “Họ nhà người cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê”.

I. Mở bài

– Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:

– Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.

– Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ,thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…

-Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…

2. Lợi ích của con trâu:

a. Trong đời sống vật chất:

– Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.

– Là tài sản quý giá của nhà nông.

– Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…

b. Trong đời sống tinh thần:

– Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu:thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…

* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:

– Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:

Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.

Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.

Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.

– Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.

Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.

Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.

Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 – 75kg, tương đương 0,36 – 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 – 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 – 3 sào và loại C 1,5 – 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 – 500kg, đường tốt là 700 – 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 – 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.

Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù…

Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu – có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.

Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.

Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc… Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:

Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón… rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.

Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.

Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 – 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 – 3 sào.

Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 – 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.

Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo… Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.

Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn – một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.

Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.

Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi “ông trâu” trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.

Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.

I. Mở bài:

Giới thiệu về cá chép: Loài cá nước ngọt phổ biến được sử dụng làm thực phẩm hàng ngày trong bữa cơm của người Việt.

II. Thân bài:

– Nguồn gốc: Cá chép có nguồn gốc ở châu u và châu Á, hiện đã sinh sống tại tất cả các môi trường trên thế giới.

– Cấu tạo:

+ Thường có màu vàng, đen, màu sắc đậm dần về phía vây lưng.

+ Thân cá chép thon dài, hẹp ở hai phần đầu và đuôi.

+ Vảy cá xếp sát nhau tạo thành lớp bảo vệ cho cá khỏi va xước khi di chuyển.

+ Đầu cá chép nhỏ, mắt đối xứng hai bên cùng hệ thống giác quan gồm mũi, miệng và râu.

+ Mang cá áp sát thân, là cơ quan hô hấp để cá thở được dưới môi trường nước.

+ Lớp vây bám dọc thân, cá chép có hai vây nhỏ sát mang giúp di chuyển dễ dàng.

+ Đuôi cá hình rẻ quạt, chia đôi đối xứng có chức năng giữ thăng bằng, giúp cá bơi đúng hướng.

– Trong quá trình bơi, cá chép uốn mình, hai thùy vây đuôi uốn thành hình số tám, đưa thân cá tiến lên phía trước. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vây đuôi, vây lưng và và đôi vây ngực khiến cá chép di chuyển nhanh chóng, dễ dàng.

– Tập tính: Cá chép thường ăn những thực vật mềm như rong, rêu, thích sống thành bầy để cùng nhau kiếm ăn.

– Cá chép sinh sản theo mùa, mỗi ổ trứng cá sinh sản được từ ba đến bốn nghìn cá thể cá con. Số lượng cá chép mỗi mùa rất lớn, mang đến nguồn lợi kinh tế cao cho người chăn nuôi.

– Vai trò:

+ Thực phẩm bổ dưỡng.

+ Vị thuốc trong y học.

– Về mặt văn hóa, tinh thần:

+ Cá chép theo quan niệm dân gian được cho là con vật gắn với biểu tượng sức khỏe dồi dào, trường thọ.

→ Truyền thuyết “cá chép hóa rồng” dùng để nhắc đến sự thi cử đỗ đạt của học trò, sự thành công trong làm ăn, buôn bán.

+ Cá chép cũng được chọn làm con vật linh, dùng để phóng sinh khi đi chùa chiền, lễ Phật.

III. Kết bài:

– Cá chép là loài động vật gần gũi, thân thuộc với người Việt Nam. Để đảm bảo chất lượng và số lượng cá chép, cần bảo tồn, nuôi trồng có kế hoạch, khai thác hợp lý, điều độ để cá chép có điều kiện và khả năng sinh sản tốt, phục vụ nhu cầu con người.

Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quý.

Màu đặc trưng của cá chép là màu vàng đen, sẫm dần về phía vây lưng. Mấy năm gần đây xuất hiện loài cá chép có màu đỏ rất đẹp. Vảy cá chép tròn và to, xếp chồng lên nhau như ngói lợp.

Thân cá chép hình thoi, thon dài. Đầu gồm hai mắt, hai đôi lỗ mũi, hai đôi râu, miệng nhỏ. Chỗ giáp với thân là hai nắp mang, bên trong có mấy lớp màng màu hồng. Khúc đuôi bắt đầu từ đuôi vây hông và tận cùng là vây đuôi.

Cá chép có một đôi vây ngực, một đôi vây hông là các vây chẵn và vây đuôi, vây lưng, vây hậu môn là những vây lẻ. Mỗi vây gồm nhiều tia vây được nối liền với nhau bằng một nếp da mỏng, mở ra, thu vào dễ dàng. Khi cá uốn mình, hai thùy của vây đuôi uốn theo hình số tám, đẩy cá tiến lên phía trước. Vây đuôi còn có tác dụng điều chỉnh hướng bơi của cá.

Ngoài nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá khi bơi đứng một chỗ, đôi vây ngực và đôi vây hông còn giúp cá bơi theo hướng lên trên hoặc xuống dưới, rẽ phải hoặc rẽ trái, giảm vận tốc bơi, dừng lại hoặc bơi giật lùi. Khi cá bơi nhanh, các đôi vây chẵn áp sát vào thân để giảm sức cản của nước.

Cá chép thường sống trong suối, sông, hồ, đầm, ao, ruộng, …Chúng thích kiếm ăn ở tầng nước giữa và tầng đáy. Cá chép là loài ăn tạp. Chúng ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép… Cá chép dễ nuôi, ít bệnh nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng các loài cá khác. Sau sáu tháng, cá chép có trọng lượng nửa kí trở lên.

Thịt cá chép dai, ngọt và thơm, được nhiều người ưa thích. Cá chép nấu cháo, cá chép rán, hấp, nấu canh chua hoặc sốt với cà, nấm, lẩu cá chép…là những món ăn ngon và bổ. Người ốm, người phụ nữ mới sinh con thường được nấu cháo cá chép ăn để tẩm bổ, mau khỏe lại.

Hiện nay, cá chép được nuôi ở nhiều nơi, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, mang lại nguồn lợi kinh tế đáng kể cho người nông dân. Trong dân gian, cá chép là biểu tượng cho sự may mắn và nghị lực vươn lên của con người. Câu chuyện “Cá chép vượt vũ môn hóa rồng” làm mọi người xúc động và tranh Cá chép Đông Hồ thường được người Việt mua về treo trong nhà ngày Tết.

Cá chép ở Việt Nam còn là một loài cá gắn liền với văn hóa truyền thống của dân tộc. Cứ đến ngày 23 tháng Chạp cuối năm, vào dịp Tết ông Táo, nhà lại thả cá chép ra sông, hồ để đưa ông Công, ông Táo lên Trời báo cáo tình hình gia đình trong năm vừa qua, cũng là cầu phúc, cầu lộc cho năm tới.

Việt Nam ta có rất nhiều loại cá nào là cá chuối, cá rô, cá rô diếc, cá trôi… trong đó không thể quên kể đến cá chép. Loài cá này có rất nhiều dưỡng chất và là một thực phẩm ngon cho nhân dân nước ta. Một lần được thưởng thức cá chép thì chắc chắn bạn sẽ không thể nào quên được mùi vị của nó. Vậy nó có những đặc điểm gì mà được nhân dân ta ưa chuộng đến như vậy.

Trước hết là về chỗ ở và nguồn gốc của nó. Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quý…Chính vì là loại cá nước ngọt cho nên rất gần gũi với đời sống của nhân dân ta nên cũng rất được ưa chuộng để làm thực phẩm của nhân dân ta. Chúng ta có thể bắt gặp nó dễ dàng trên những mương sâu ở quê. Cá chép hoặc tự có hoặc do nhân dân nuôi trồng trong những ao đầm. Những con cá chép được nuôi trong đầm sẽ có kích thước cơ thể to hơn.

Thứ hai là về đặc điểm màu sắc của nó thì nó có màu vàng đen, sau đó thì có màu sẫm dần về phía đuôi lưng. Cái màu ấy của nó thật sự rất đẹp, chỉ cần nhìn một lần là biết là nó. Ngày nay thì có thêm con cá chép màu vàng đỏ rất đẹp. Vảy của cá chép thì rất to đều nhau, nhỏ dần xuống phía đuôi xếp đều nhau như những mái ngói màu vàng đen vì trải qua mưa gió.

Về thân hình cũng như những cánh vây của nó thì nó có một thân hình dài, không quá dài như cá chuối nhưng cũng đủ để được gọi là dài. Nó mang dáng hình thon thả. Cái đầu với những bộ phận giống như những con cá khác nhưng đặc biệt nó có đôi mắt to và sáng hơn. Cái miệng nho nhỏ và những mang trong có màu hồng nhạt rất đẹp, nó còn có hai cái râu ở miệng nữa. Cá chép có những vây như vây ngực, vây hông là những vây chẵn còn vây lưng, vây hậu môn thì là vây lẻ. Những chiếc vây nhỏ ấy như những cái xương được bao bọc bởi một lớp da mỏng khiến nó giống như cái mái chèo giúp cho cá có thể bơi được. Vận dung vay của cá mà con người chúng ta có thể chế tạo những dụng cụ bơi giống hình vay cá. Vây đuôi thì uốn theo vòng số tám để đẩy cá tiến lên phía trước. Có thể nói rằng nó có nhiệm vụ để làm cho cá định hướng bơi của cá. Tất cả các vây ấy có nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá. Đặc biệt nhiệm vụ quan trọng đó là giúp cá tiến lên hoặc lùi xuống rẽ trái hay rẽ phải.

Cách thức kiếm thức ăn của cá chép là chúng sống ở những đáy hoặc giữa nước để kiếm thức ăn ở đó. Cá chép là một loại ăn tạp chính vì thế mà nó có thể ăn được rất nhiều thứ như: ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép còn ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép. Không những thế thì cá chép còn là một loại rất dễ nuôi vì ít bị bệnh.

Cá chép có công dụng rất lớn đó là một thực phẩm cho con người. Đặc biệt là người phụ nữ có thai thì thường ăn cá chép cho bổ. Thịt cá chép dai, thơm ngon có thể rán ăn chấm nước mắm tỏi, hoặc là nấu canh sốt cà chua, nấu canh dưa cá…

Không chỉ là một loại thực phẩm thơm ngon mà cá chép còn có cả những truyền thuyết nữa. Đó chính là truyền thuyết cá chép hóa rồng vượt thác biểu tượng cho sự vươn lên trong cuộc sống của con người. Đặc biệt trong ngày tết ông công ông táo thì cá chép gắn liền với phương tiện của các táo lên chầu trời. Chính vì thế mà ngày lễ ông công ông táo người dân Việt Nam thường mua cá về cúng tổ tiên sau đó thả chúng ra sông hồ.

Như vậy ta có thể thấy được những đặc điểm nổi bật của con cá chép. Những truyền thuyết của nó và những dưỡng chất của nó mang lại. Chính vì thế chúng ta nên bảo vệ loài cá này trước những hóa chất độc hại để từ đó cung cấp nguồn thực phẩm tươi sạch thơm ngon từ những con cá chép.

I. Mở bài:

– Dẫn dắt, giới thiệu đối tượng thuyết minh: Con lợn (theo cách gọi miền Bắc) hoặc con heo (theo cách gọi miền Nam)

– Giới thiệu đối tượng thuyết minh: con lợn (loài vật nuôi quen thuộc, được nuôi rộng rãi, có vai trò quan trọng,…).

II. Thân bài

– Nguồn gốc của loài lợn:

+ Có nguồn gốc từ lục địa Á – Âu.

+ Lợn nhà ngày nay xuất phát từ lợn rừng được thuần hóa.

Hình dáng và đặc điểm đặc trưng của con lợn:

– Hình dáng đặc trưng:

+ Có 4 chân, chân thấp, có móng guốc

+ Toàn thân phủ một lớp lông cứng bên ngoài

+ Có mõm to, mũi to.

+ Hai tai to và vểnh.

– Đặc điểm, tập tính vốn có của lợn (heo):

+ Là loài ăn tạp

+ Có khứu giác phát triển, thích đào + bới

+ Thích sống nơi râm mát, ẩm ướt

+ Sinh nhiều con, nhiều lứa.

– Vai trò của lợn trong cuộc sống:

+ Một số giống lợn được nuôi làm kiểng, thú cưng.

+ Cung cấp thịt, da làm thực phẩm.

+ Dùng để trao đổi, mua bán tăng nguồn thu nhập cho người chăn nuôi.

+ Lợn và thịt lợn thường được dùng trong các buổi lễ, tế, thờ cúng.

+ Lợn còn là nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật (nó xuất hiện trong thơ ca, mỹ thuật, văn học,…).

III. Kết bài

– Khẳng định lại vai trò của lợn đối với cuộc sống con người và cảm nhận của em đối với con vần vô cùng quen thuộc và có ích này.

Cuộc sống của con người sẽ trôi đi tẻ nhạt và buồn chán biết bao nếu như không có những con vật để bầu bạn. Nếu như những chú mèo nhỏ xinh là con vật cưng của nhiều người, chú chó là người canh dữ dũng cảm thì chú lợn hiền lành, đáng yêu luôn đem lại cho người ta những giây phút thư giãn và yêu đời.

Chắc hẳn là ai cũng nhận biết được loài vật này, lợn đã trở thành một con vật nuôi quen thuộc với chúng ta. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, đầu tiên do con người săn bắn và hái lượm, họ bắt được lợn rừng và đem về nuôi. Dần dần con người ý thức và chọn lựa những con lợn tốt để nuôi còn những con kém chất lượng có thể giết thịt nhằm cung cấp thực phẩm. Tổ tiên của lợn chính là lợn rừng, cho rằng lợn nhà được tạo ra từ các giống lợn rừng châu Âu và châu Á.

Các giống lợn được phân thành các giống lợn chính và các giống lợn phụ. Ở rừng châu Á và châu Âu có tới bốn giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành ba giống lợn phụ của châu Á là Sus orientalis, Sus vitatus, một giống lợn châu Âu Sus crofa. Lợn rừng và lợn hoang dã cũng là những giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là giống lợn thích nghi như các động vật bán thủy sinh.

Lợn thuộc vào thứ có guốc. Kích cỡ và hình dạng của lợn thường thay đổi khác nhau tùy theo từng giống. Đầu và toàn thân lợn có thể dài đến 190500mm, đuôi dài từ 35- 450mm. Lợn trưởng thành cơ thể nặng tới 350kg. Mắt của chúng nhỏ và dẹt, nằm cao trên hộp sọ. Tai của lợn khá dài và rủ xuống với một nhúm lông nằm gần đầu mút. Hộp sọ của lợn thường dài và có một điểm chấm khá bằng phẳng. Mũi của lợn to bằng bàn tay nắm lại và khá linh động. Cả bốn chân của lợn đều có móng nhưng nó chỉ thể hiện chức năng trong vận động ở các ngón giữa. Những chú lợn khoác lên mình bộ áo màu trắng phớt hồng, điểm xuyết một vài chiếc lông trắng.

Lợn được nuôi để lấy thịt có chất lượng thịt thơm ngon, tỷ lệ thịt xẻ và tỉ lệ mỡ cao trong thân thịt. Lợn có thể sản xuất một lượng mỡ đáng kể. Mỡ là một nguồn dự trữ năng lượng lớn, giúp cho thịt có mùi và vị ngon hơn. Ngoài ra thịt lợn vốn là loại thực phẩm có giá cao, ổn định trên thị trường. Lợn có rất nhiều đóng góp giá trị cho đời sống của con người. Hầu hết thân thịt lợn đều sử dụng để chế biến hoặc làm thức ăn cho con người. Da của lợn có thể làm thức ăn hoặc cung cấp cho ngành thuộc da, lông có thể được dùng để làm bàn chải, bút vẽ. Sự phát triển của công nghệ chế biến thịt hun khói, lên men đã tạo nên một số lượng sản phẩm rất đa dạng từ thịt lợn, các công nghệ này đã giúp cho quá trình bảo quản, nâng cao tính đa dạng, hương vị và nâng cao phẩm chất khẩu phần ăn cho con người.

Sau khi được thuần hóa, lợn sớm trở thành một món hàng có giá trị cho việc kinh doanh và buôn bán. Trước khi tiền tệ xuất hiện, con người đã tiến hành trao đổi lợn để lấy các loại hàng hóa khác. Quá trình thương mại diễn ra cũng có nghĩa là con lợn bắt đầu có giá trị kinh tế. Việc bán lợn và các sản phẩm lợn cung cấp một nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân trên thế giới. Các sản phẩm này đã ảnh hưởng rộng đến các hoạt động kinh doanh khác như: thương mại, vận chuyển, thị trường, giết mổ, chế biến thức ăn và nhiều lĩnh vực khác nữa. Ngoài ra nó còn có tác dụng kích cầu đối với các ngành chế biến thức ăn, sản xuất con giống, tinh dịch, thuốc thú y và các thiết bị khác. Khi lợn có giá trị kinh tế, chúng là một hình thức tiết kiệm cho người dân.

Lợn đã được xem là một loài vật nuôi có tầm quan trọng không chỉ vì giá trị thức ăn mà còn có các giá trị văn hoá độc đáo. Điều này được thể hiện trong các bài hát, thơ ca, tranh ảnh hội hoạ, sách. Lợn được xem là có các đặc tính của con người. Nó được thể hiện là các đấng anh hùng hay là kẻ hung dữ trong các truyện ngụ ngôn.

Những con lợn đem lại nguồn lợi không hề nhỏ cho người dân và mang những giá trị tinh thần to lớn. Vì vậy, ta cần chăm sóc và yêu quý loài vật này.

Từ xa xưa, lợn là loài vật đã gắn bó thân thiết với người dân Việt Nam, nó là nét đặc trưng của vùng quê lam lũ, con vật hiền lành và được nuôi phổ biến trong những hộ gia đình. Nó đóng vai trò quan trọng đối với kinh tế của người nông dân nghèo khó.

Trong ngành chăn nuôi gia súc, lợn là loài vật đem đến lợi nhuận kinh tế cao. Ở Việt Nam hiện nay có nhiều giống lợn được người nông dân nuôi như: lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Trong đó loại lợn ỉn được nuôi nhiều nhất, phát triển mạnh ở đồng bằng Bắc Bộ. Chúng có thân màu đen, hoặc đen khoang trắng, lông chúng thưa, mõm ngắn, bụng sệ khiến lưng của chúng cũng võng xuống theo, có bốn chân nhỏ và thấp chính vì thế mà chúng di chuyển khá chậm chạp, ì ạch và nặng nhọc. Lợn ỉn sau bảy đến tám tháng nuôi sẽ đạt cân nặng là 60-70 ki lô. Khi lợn đạt đến cân nặng tiêu chuẩn, người dân có thể bán đi hoắc tiếp tục nuôi để lợn sinh sản ra lứa sau. Mỗi lứa sinh, lợn thường đẻ tới hàng chục con và nuôi chúng bằng sữa mẹ.

Lợn là loài vật rất dễ nuôi, thức ăn của chúng đa phần là bèo cái, khoai nứa hoặc cám và các loại rau như rau lang, rau muống, cây chuối. Chúng ăn rất nhiều, ăn xong nằm ngủ, đặc tính của chúng khá dễ bao gồm hai việc ăn và ngủ, chúng không có những đặc điểm giống như các loài vật khác. Thịt lợn ỉn rất ngon, thịt nạc mềm và da chúng mỏng nên được nhiều người ưa chuộng, dần chúng trở thành thực phẩm phổ biến trên thị trường thực phẩm Việt Nam nói riêng và thị trường nước ngoài nói chung. Trong các gia đình nông thôn, thường hộ nuôi hai lứa lợn, mỗi lứa dăm chục con, không chỉ nuôi lấy thịt, phân của chúng còn được tận dụng bón cho cây trồng.

Ngoài lợn ỉn ở vùng đồng bằng Bắc Bộ thì cũng có nhiều giống lợn khác phân bố ở các tỉnh thành vùng núi phía Bắc như : lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn ở trên các vùng núi thường được nuôi thả rông, thân nhỏ, mõm dài,lông cứng, nặng từ bảy đến hơn chục ki lô. Khi đủ độ lớn, chúng được người dân mang ra các phiên chợ địa phương để trao đổi mua bán.

Hiện nay, khi Việt Nam càng tập trung phát triển mạnh về chăn nuôi gia súc, với sự kết hợp của các nhà nghiên cứu và người dân, nhiều giống lợn được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp mới, quy mô trang trại lợn hơn, tăng thêm lợi ích kinh tế cho người dân. Ví dụ như giống lợn của nước Anh, chúng có thân trắng hồng, lông mượt, đầu nhỏ và hai tai dựng, thân dài bụng thon gọn và bốn chân cao. Trọng lượng của một con lợn trưởng thành có thể lên tới 100 ki lô, cơ thể khá săn chắc do quy cách chăn nuôi được nâng cao và đổi mới. Giống lợn này hiện nay hầu như đáp ứng nhu cầu của mọi người tiêu dùng trên thị trường, Từ thịt lợn ấy, người ta chế biến được nhiều món ăn dinh dưỡng như: Thịt rang, thịt lợn luộc, thịt ba chỉ, thịt nạc vai băm để nấu canh, kho hay rán cùng với trứng,.. Hầu hết thịt lợn xuất hiện hàng ngày trong các bữa ăn gia đình đến những ngày giỗ, ngày Tết,.. Bên cạnh đó lợn còn xuất hiện trong những bức tranh Đông Hồ của các nghệ sĩ vẽ tranh, chúng mang một vẻ đẹp giản dị trong đời sống nhân dân Việt Nam.

Advertisement

Lợn là con vật quen thuộc mang lại nhiều lợi ích cho con người, gắn bó thân thiết với người nông dân, với xóm làng, vườn tược và quê hương Việt Nam.

I. Mở bài:

Có một loài vật nuôi gắn bó với đời sống của người Việt Nam, đem lại nhiều lợi ích cho con người, không chỉ về vật chất mà cả về mặt tinh thần. Đó là loài gà. (Có thể từ những câu thơ của Xuân Quỳnh trong bài “Tiếng gà trưa” để dẫn đến việc giới thiệu loài gà)

II. Thân bài:

– Gà có nguồn gốc từ gà rừng, được con người đem về nuôi nên có tên là gà nhà.

– Khác với gà rừng, do được chăm sóc, nên gà nhà có thói quen trở về chuồng mỗi khi trời tối.

– Gà thuộc họ chim, nhóm lông vũ. Có nhiều loại gà như gà gô, gà ri, gà tam hoàng, gà ta,…

– Xét về giới tính, có gà mái và gà trống:

+ Gà trống có thân hình vạm vỡ, trên đầu có mào đỏ chót, bộ lông rực rỡ, lông đuôi dài, chân có cựa

– lực lưỡng và oai vệ.

+ Gà mái yểu điệu, đoan trang, lông mượt mà, lông đuôi ngắn, mắt tròn xoe, trên đầu không có mào, chân không cựa.

+ Thức ăn của gà là thóc, các loài côn trùng, giun đất, chuối cây thái nhỏ băm nhuyễn trộn cám, các loại bột dạng viên, …

– Gà mái đẻ trứng, mỗi lứa có thể đẻ từ 15 đến hơn 20 quả. Trứng được ấp trong khoảng 3 tuần thì nở ra những chú gà con xinh xắn. Những chú gà con này vừa mở mắt có thể tự kiếm ăn, nhưng đối với gà nhà, chúng thường được mẹ dẫn đi kiếm mồi. Mỗi khi gà mẹ tìm được mồi liền cục cục,…gọi đàn con đến ăn. Những lúc gà mẹ dẫn con đi ăn, nếu có loài vật nào dám đụng đến đàn gà con thì lập tức bị gà mẹ chống trả quyết liệt.

– Vai trò của gà trong đời sống con người:

Gà là một động vật có ích, đem lại nhiều lợi ích về kinh tế cho con người.

+ Trứng gà là nguồn thực phẩm lớn trong đời sống con người. Từ trứng gà có thể chế biến nhiều món ăn ngon như món trứng gà luộc, trứng gà chiên, trứng gà ốp la,…Trứng gà đánh với bột mì có thể làm bánh, bánh ga tô, bánh kem,…Trứng gà còn là một dược phẩm dùng để dưỡng da. Ông bà ta thường luộc trứng để cạo gió mỗi khi bị cảm sốt.

+ Thịt gà là món ăn ngon. Có nhiều món được chế biến từ gà như gà luộc chấm muối tiêu, gà xé trộn rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,…

+ Lông gà qua xử lí hoá học có thể trở thành một loại bột giặt hữu hiệu. Ngoài ra còn dùng làm cây cọ để viết, vẽ; làm chổi, làm quạt, làm áo lông gà, làm cầu cho môn thể thao đá cầu,…

+ Ngay cả chất thải của gà cũng có thể dùng làm phân bón cho cây cối. Loại phân này rất thích hợp cho cây ớt và cây thuốc lá.

– Không chỉ có lợi ích về vật chất, mà còn có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của con người.

+ Tiếng gà gáy là chiếc đồng hồ báo thức cho người dân quê. Tiếng gà gáy mỗi sớm, mỗi chiều trở nên quen thuộc gợi cuộc sống thanh bình, yên ả. Vì thế mà nó đi vào thơ văn một cách tự nhiên. Ngay từ thời xa xưa, trong truyện cổ tích “Sọ Dừa”, tiếng gà gáy xuất hiện đã đem lại sự đoàn tụ cho Sọ Dừa và cô Út. Và “Tiếng gà trưa ” của Xuân Quỳnh là một bài thơ rất hay về âm thanh “tiếng gà”: “Trên đường hành quân xa – Dừng chân bên xóm nhỏ – Tiếng gà ai nhảy ổ – Cục cục tác cục ta – Nghe xao động nắng trưa – Nghe bàn chân đỡ mỏi”

+ Trên mâm cỗ cúng ông bà tổ tiên, đất đai, thần thánh thường có gà luộc nguyên con, để tỏ lòng trân trọng biết ơn ông bà, tổ tiên.

+ Gà còn xuất hiện trong các lễ hội truyền thống với trò chơi chọi gà độc đáo. Ở nước Pháp chú gà trống Gô-la tượng trưng cho sự phồn thịnh của nước nhà.

– Hình ảnh gà mẹ dẫn đàn gà con đi kiếm mồi điểm thêm cho bức tranh làng cảnh Việt Nam.

– Tuy nhiên hiện nay do bị ảnh hưởng của môi trường sống, nhiều loại dịch bệnh xuất hiện trong những năm gần đây, nhất là bệnh dịch cúm gia cầm H5N1. Vì thế mà con người cần chăm sóc cẩn thận để nguồn bệnh đỡ lây lan, không nên ăn gà bệnh. Cần phải có mạng lưới kiểm duyệt chặt chẽ nguồn thực phẩm này.

III. Kết bài:

– Khẳng định vị trí của loài gà.

– Tình cảm của em với loài vật nuôi này

Bức tranh thôn quê Việt Nam là một bức tranh tràn ngập sắc màu rực rỡ nhưng cũng rất yên bình, ở đó chứa đựng mơ ước của người nông dân, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,… nhưng gần gũi với mỗi gia đình nhất có lẽ là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà.

Đối với người nông dân Việt Nam thì gà nhà luôn là con vật gần gũi và thân thuộc nhất trong số rất nhiều các loài gà khác nhau. Gà là vật nuôi quan trọng nhất của con người để lấy thịt và trứng. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để thích nghi với cuộc sống bới đất tìm mồi, từ thuở xưa, gà đã được tạo hóa ban cho một đôi chân to móng cùn và cứng, phủ vảy sừng mỏng màu vàng và còn một cái mỏ ngắn khỏe nữa. Không phải từ thuở ban đầu gà sinh ra đã là gã nhà mà tổ tiên của chúng là gà rừng đã trải qua thuần hóa liên chúng không có khả năng bay lượn. Đại đa số thời gian chúng dùng chân nâng đỡ cơ thể đi lại trên mặt đất. Vì vậy, cơ hồng của gà đa số tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác lại là cơ trắng.

Các em thiếu nhi vẫn có bài hát rất dễ thương về loài động vật này: Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ mấy câu hát đơn giản như vậy thôi đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được coi là gà bố, đúng như một ông bố có dáng bệ vệ, chân có cựa sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật bởi bông hoa đỏ rực trên đầu mà người ta vẫn gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy âm vang, từ lâu đã được coi như là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay là gà mẹ, cũng giống với một người mẹ, hiền lành và có dáng vẻ chậm chạp hơn, bộ lông không sặc sỡ.như gà trống. Nhưng bù lại, với “thiên chức” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêu “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn của gà mái, hay có thể nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhưng có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay.

Đối với gà thì hạt thóc hạt mạch… có thể được coi là sơn hào hải vị của chúng. Nhưng cho dù được ăn những thứ đó hàng ngày thì chúng vẫn thích mổ đông bới tây, đề tìm ăn những hạt sỏi, hạt cát. Thật ra vì không có răng nên gà cần dựa vào thứ khác để nghiền thức ăn và chúng đã lợi dụng sỏi để tiêu hóa thức ăn. Thịt gà và trứng gà là những thức ăn bổ dưỡng rất tốt cho con người.

Không những từ xưa mà đến bây giờ vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với hết thảy mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã đi vào tín ngưỡng, vào đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Nó là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi bằng cái tên thân mật là “Dậu”. Con “Dậu” là tượng trưng cho một tuổi đời. Ai đã từng đến Việt Nam, từng tìm hiểu và yêu nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc hẳn không thể nào quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà bản sắc Việt với hình ảnh phong phú về thể loại, màu sắc cách điệu nhưng cũng giản dị vô cùng, nổi bật với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”… Dưới con mắt của người Việt Nam, con gà đáng trân trọng và thân thương như vậy đó. Từ lâu đã thành lệ, con gà là thứ không thể thiếu trong bất kì lễ tết truyền thống hay ngày cúng giỗ nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ khắc chuyển giao, nhà nhà lại cùng nhau bày một mâm cỗ đặt trước cửa nhà để cầu mong tốt lành, hạnh phúc cho năm mới. Lẽ dĩ nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một,cái đĩa lớn đặt giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là tượng trưng cho sự an lành, may mắn mà nhà nhà đều mong đợi. Tự nhiên như thế, con gà trống như linh vật của người dân Việt Nam, tượng trưng cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn rất linh thiêng đối với nhân dân.Con gà còn đi vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ nói đến kinh nghiệm trong văn hóa ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh” nhưng có câu còn để răn dạy con người như:

Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam thưa vắng món thịt gà. Người ta cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, nhất là mỗi độ Tết đến.

Con gà là biểu tượng sự sống, của hi vọng, an lành đối với người dân Việt Nam. Mong rằng nạn dịch cúm sẽ nhanh chóng được đẩy lùi để con gà lại được hồi sinh, lại trở về bên người nông dân, trở về với bữa-cơm thường ngày và luôn gần gũi gắn bó với người dân Việt.

Các giống vật đều có hai loại là đực và cái; riêng đối với gà, người Việt ta gọi con gà đực là gà trống hay gà sống và gọi con gà cái gà mái. Gà trống thì ít mà gà mái thì nhiều

Gà trống trông oai vệ và rất đẹp trai vì có lông dài mượt, óng ả, và nhiều màu sắc. Thêm vào đó, gà trống còn có cái mào đỏ chói trên đầu, có đuôi dài và xòe rộng, có cái bầu diều hay diều gà ở cổ (diều là cái bíu hay cái bọc chứa đồ ăn ở ngay dưới cổ của một vài loại chim), và có cựa gà ở mỗi chân. Chính nhờ đôi cựa gà này mà loại gà trống được nổi tiếng qua việc chọi gà trong dân gian.

Gà Trống còn có một điểm rất đặc biệt khiến người dân Việt ở thôn quê coi gà trống giống như cái đồng hồ vì tiếng gáy “o! o!” của gà trống rất đúng giờ, nhất là “gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông” (câu thơ số 3216 trong Truyện Kiều của Nguyễn Du). Tại rất nhiều làng thôn ở quê người Việt chúng ta, dân quê vẫn nhờ tiếng gà gáy, nhìn ánh nắng, nhìn mặt trăng để ước lượng thời gian. Chính vì thế mà gà trống lúc đầu được nuôi để làm vật tôn thờ vì nó biết gáy sáng. Tuy rằng gà trống là loại đa thê, dê xồm, và kiêu ngạo nhưng đó là điều rất nhỏ nếu so sánh với 5 điều rất lớn và đáng ca ngợi của nó. Đó là 5 đức tính lớn: văn, võ, dũng, nhân, và tín. Lý do là đầu gà trống có mào hay mồng giống như đội mũ, đó là văn; chân gà trống có cựa sắc bén như gươm giáo, đó là võ; thấy quân thù, gà trống liền xông vào đá và mổ, đó là dũng; khi kiếm được đồ ăn gà trống bèn gọi bạn bè, gà mái, và gà con đến ăn, đó là nhân; và ban đêm tới giờ sáng, gà trống gáy cầm canh đúng giờ, đó là tín.

Gà mái thì có vẻ nhã nhặn và khiêm nhường. Lông của gà mái thì màu vàng và lấm-tấm đen. Dầu gà mái cũng có mào gà màu đỏ nhưng rất nhỏ. Gà mái có đuôi ngắn hơn gà trống và không có bầu diều ở cổ. Gà mái gáy “cục cục, cục ta cục tác,” gà con thì kêu “chíp chíp chíp.” Gà mái rất bận rộn vì phải tìm đồ ăn, đẻ trứng, ấp trứng, và săn sóc gà con. Chỉ có gà mái trông nuôi đàn con còn gà trống thì không để ý đến. Mỗi sáng, gà mái lấy mỏ rỉa lông làm dáng.

Gà là giống vật có hai chân, có hai cánh, và có lông vũ che phủ toàn thân như các loài chim. Mắt gà thì tròn, nhỏ như hạt đậu đen, và không có lông mi. Hai mắt của đầu gà không nằm cùng trên một mặt ở gần trán như mắt người hay mắt chó mà mỗi con mắt của gà lại nằm riêng rẽ ở phía trên mỗi bên má. Chính vì thế mà khi nhìn, gà thường lắc đầu bên này qua bên kia và bước lên theo hình chữ chi (z). Gà không có vành tai, nhĩ quản của gà rất ngắn và được bảo vệ bằng lông và một miếng da. Tuy thế, thính giác của gà thật hữu hiệu đặc biệt để tránh các cầm thú săn đuổi. Khi gặp nhiệt độ cao và nóng, gà thường há rộng mỏ, thở gấp rút, duỗi cánh, và uống nước cho mát. Tuy có hai cánh nhưng khả năng bay của gà không được tốt như các loài chim khác. Mỗi chân gà có bốn ngón với móng chân rất sắc và nhọn dùng vào việc đào đất, bới đất, và cào cỏ để tìm đồ ăn. Mỏ gà rất cứng và nhọn. Trong mồm gà không có răng. Gà rất dễ tính về việc ăn uống. Gà thích ăn thóc, gạo, rau, cỏ, trái cây, con dế, con gián, con cào cào, con châu chấu, con mối, và con giun. Gà rất ham ăn vặt nên suốt từ buổi sáng đến tận buổi tối gà thường chăm chỉ và tha thẩn đi tìm thức ăn.

Gà rất điều độ về việc thức ngủ, khi vừa mới tối, gà đã rủ nhau về chuồng đi ngủ; khi bắt đầu sáng, đàn gà đã thức giấc và gà trống thì gáy o! o! Gà chỉ ngủ theo cùng đàn ở nơi quen thuộc và an toàn. Gà sợ nhất rắn hổ mang và mùi của củ hành hay lá hành. Vì thế mà gà có đời sống rất thoải mái.

Ở Việt Nam, có nhiều vùng chuyên nuôi gà mái để gà mái đẻ ra nhiều trứng rồi cho ấp ra gà con mà nuôi; sau đó, khi cần thì người ta giết gà để ăn thịt. Nhiều người nuôi gà đã có kinh nghiệm chỉ nhìn quả trứng là biết trứng đó sẽ nở ra gà trống hay gà mái. Nếu một đầu quả trứng gà mà nhọn thì bảo đảm sẽ nở ra gà trống và nếu quả trứng nào tròn trịa, tức là quả trứng đó không có đầu nào nhọn thì sẽ nở ra gà mái. Có nhiều gia đình nuôi gà chỉ để gà đẻ trứng rồi dùng trứng gà để làm đồ ăn. Sau khi gà đẻ trứng rồi, người ta lấy trứng đem ấp trong lò ấp nhân tạo rất tiện lợi. Sau khi ấp trứng gà được vài ngày thì trứng đó được gọi là “trứng gà lộn.” Trứng gà lộn này rất được những người nghiện rượu ưa thích dùng làm đồ ăn để nhậu rượu. Thường thường người dân Việt hay ăn “hột vịt lộn” chứ không ăn “trứng gà lộn.” Tuy nhiên vẫn có một số trong những người nghiện rượu thích ăn “trứng gà lộn.”

Nhiều người nuôi gà để ăn thịt. Với thịt gà, người ta có thể làm được nhiều món ăn ngon như: gỏi gà, gà quay, gà kho sả, gà luộc, gà nướng lá chanh, gà hấp muối, gà hầm thập cẩm, gà rim nước dừa, gà nấu tiêu, gà chưng cách thủy, gà tiềm, phở gà, miến gà, bún gà, mì gà, hủ tiếu gà, gà rút xương bỏ lò, và gà nhồi thập cẩm, v.v. Vào ngày Tết ta, dân Việt rất thích ăn xôi với thịt gà và tổ chức chọi gà để được hưởng vui thú. Gà ở quê ta rất ngon, nhất là vào tháng tám ta vì đã được chứng thực bằng câu tục ngữ “ếch tháng ba, gà tháng tám.” Tháng tám ta là tháng gặt lúa nên gà tha hồ ăn lúa mới; vì thế, thịt gà rất ngon.

Người ta còn nuôi gà để làm đồ cúng bái trong dịp Tết, giỗ gia tiên, và dùng con gà giò còn sống để cúng lễ mở cửa mả. Người ta dùng con gà trống lớn để cúng thần linh khi người dân muốn làm lễ thề thốt. “Gà, xôi, trầu, và rượu” là 4 lễ vật tối thiểu để cúng thần thánh.

Người Việt ta còn dùng gà để bói (kê bốc). Người ta dùng gan gà, đầu gà, mật gà, phổi gà, xương gà, và trứng gà để bói. Tùy theo mỗi nơi người ta ấn định thế nào là tốt và thế nào là xấu trước khi giết gà đem lễ để bói. Thêm vào đó, người ta còn dùng tiếng gáy của gà để bói nữa. Thường thường gà gáy sáng thì tốt và gáy vào buổi chiều thì xấu cho gia đình.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Sách Giáo Khoa Ngữ Văn Lớp 9 Dàn Ý &Amp; 6 Bài Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất

I. Mở bài:

Tùy theo cách mở bài trực tiếp hay gián tiếp nhưng đều cần phải hướng đến giới thiệu về yêu cầu của đề bài: Thuyết minh về cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 9.

II. Thân bài:

* Xuất xứ của cuốn sách:

Sách giáo khoa Ngữ Văn được Bộ Giáo dục nước nhà cho phép xuất bản

Sách được nhiều giáo sư nổi tiếng biên soạn như: Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Long, Nguyễn Minh Thuyết…

* Hình dáng và nội dung cuốn sách

– Bìa sách: Được thiết kế đơn giản dễ nhìn.

Phía góc trên bên trái là dòng chữ “Bộ Giáo dục và đào tạo” được in hoa hoàn toàn. Ngay phía dưới là dòng chữ “Ngữ Văn” được trình bày to, rõ ràng với font chữ đẹp. Phía góc bên phải dưới dòng chữ “Ngữ Văn” là tên tập của sách.

Sách giáo khoa Ngữ Văn có 2 tập, tập một và tập hai chia ra nội dung học tập cho học kỳ I và học kỳ II của học sinh. Phía dưới là hình ảnh cành cây gấc với hoa vàng rũ xuống, trái gấc chín đỏ ở bìa sách tập 1 và cành lựu với những trái lựu to tròn, màu vàng bắt mắt ở bìa sách tập 2. Hình ảnh đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, giống như là lời khích lệ mỗi học sinh cố gắng học tập để sớm đạt được trái chín vậy.

– Trang đầu tiên của sách ghi lại thông tin như ở bài sách nhưng chi tiết hơn về tên những người biên soạn cuốn sách. Trang tiếp theo là phần lời nói đầu của người chủ biên biên soạn sách. Đó là những lời giới thiệu đầu về cuốn sách cũng như là lời chúc các học sinh học tập thật tốt, đốt thêm lửa nhiệt huyết cho mỗi thế hệ.

– Mỗi bài học được chia ra bao gồm một văn bản, một tiết học tiếng Việt, một tiết học tập làm văn, một tiết luyện tập các bài học đã học. Ngay trước khi bắt đầu bài học luôn có một ô trống ghi nội dung những điều cần đạt được sau mỗi bài học này. Các bài học được trình bày rất rõ ràng, hợp lí và logic, đi từ cơ bản nên phù hợp với mọi học sinh trong quá trình tiếp thu.

– Các văn bản được sắp xếp tìm hiểu theo trình tự thời gian, bắt đầu từ văn học nước nhà cho đến văn học thế giới nhằm giúp học sinh có một nền kiến thức toàn diện về văn chương nước mình và nước bạn.

* Ý nghĩa của cuốn sách:

Cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn giúp mỗi học sinh có nền kiến thức cơ bản và chắc chắn, bổ sung sự hiểu biết, làm tiền đề cùng với các môn học khác để giúp học sinh tự tin khi học lên cao hơn và bước ra ngoài đời sau này.

* Cách bảo quản sách:

Sách giáo khoa vừa là người bạn, vừa là người thầy của mỗi học sinh, bởi vậy cần nâng niu, trân trọng cuốn sách.

Có thể bọc giấy kính cho cuốn sách để tránh làm cho sách bị bẩn, bị lem.

Cần ghi tên, dán nhãn vở để tránh bị thất lạc sách.

III. Kết bài:

Nêu tình cảm của bản thân với cuốn sách, nêu suy nghĩ về giá trị của sách.

Trên chặng đường học tập, ngữ văn là môn học không thể thiếu đối với chúng ta. Nó giúp ta phát triển khả năng đọc viết, giao tiếp một cách toàn diện. Và một phần không thể thiếu khi học ngữ văn chính là SGK. Nội dung chương trình trong sách giáo khoa các lớp như một mắt xích, mỗi năm gắn kết chặt chẽ với nhau, và SGK lớp 9 tập một là phần rất quan trọng trong quá trình học ngữ văn.

SGK Ngữ văn 9 tập 1 do nhà xuất bản giáo dục phát hành dưới sự cho phép của bộ giáo dục và đào tạo. Cầm cuốn sách trên tay, ta có thể thấy nổi bật dòng chữ ngữ văn 9 tập 1 trên nền màu hồng nhạt. Phía góc trên của cuốn sách là dòng chữ màu đen: Bộ giáo dục và đào tạo…

SGK lớp 9 tập 1 đem lại cho chúng ta không ít lợi ích, chính vì vậy, ta cần thể hiện thái độ trận trọng đối với nó. Chúng ta cần bọc quyển sách gọn gàng sạch sẽ, không vẽ bậy lên trang sách. Ngoài việc giữ gìn cho sách cẩn thận, thì học tốt môn ngữ văn cũng là một cách để thể hiện lòng biết ơn đối với người làm sách. Chúng ta cần học bài đầy đủ, nhớ những kiến thức trọng tâm cần thiết, chú ý gạch chân phần quan trọng để học tốt hơn…

Cuốn sách SGK lớp 8 tập 1 là tài sản của tri thức nhân loại, thấm đượm mồ hôi công sức của biết bao vị giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo cho những học sinh học tập nên người. Cuốn sách như một ngọn đèn hải đăng soi sáng những cánh cửa dẫn đến tương lai của bao thế hệ học trò.

Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 nói riêng và sách giáo khoa nói chung là một đồ dùng không thể thiếu đối với mỗi học sinh và giáo viên. Bởi đây là phương tiện để giáo viên truyền đạt kiến thức và giúp học sinh thu nhận những kiến thức bổ ích đó. Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 9 bao gồm nhiều tác phẩm truyện và thơ đặc sắc, giúp học sinh có cái nhìn toàn vẹn hơn về nền văn học Việt Nam và nước ngoài.

Cuốn sách có hai tập, thuộc bản quyền của Nhà xuất bản Giáo Dục Việt Nam – Bộ Giáo dục và Đào tạo, do nhiều giáo sư có tên tuổi biên soạn. Đó là ông Nguyễn Khắc Phi làm tổng chủ biên, Nguyễn Văn Long làm chủ biên phần Văn, Nguyễn Minh Thuyết làm chủ biên phần Tiếng Việt và thầy giáo Trần Đình Sử làm chủ biên phần Tập Làm Văn cùng một số giáo sư khác như Lê A, Diệp Quang Ban, Lê Quang Hưng, Lê Xuân Thại… Chịu trách nhiệm về phần xuất bản do Chủ tịch Hội đồng Thành viên Mạc Văn Thiện, Tổng Giám đốc chúng tôi Vũ Văn Hùng, phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập TS. Phan Xuân Thành. Về phần biên tập có các tên tuổi như Kim Chung, Ngọc Khanh, Nguyễn Trí Sơn, Nguyễn Kim Toàn, Trần Tiểu Lâm… Tính đến năm 2023, sách đã tái bản lần thứ mười hai. Quyển sách có tất cả 212 không kể hai trang bìa.

Cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 9 tuy không dày, không quá nhiều đơn vị kiến thức nhưng cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, cần thiết trong từng phân mục. Mỗi học sinh cần giữ gìn, bảo vệ, để ở nơi thoáng mát như trên giá sách để sách luôn mới, không bị nhàu nát.

Ngày nay có nhiều loại sách tham khảo ra đời để hỗ trợ cho chúng ta trong học tập. Nhưng cuốn sách Giáo khoa ngữ văn lớp 9 nói riêng và Sách giáo khoa nói chung luôn là tài liệu quan trọng nhất trên còn đường tiếp cận tri thức.

Mỗi chúng ta khi cắp sách đến trường đều trang bị cho mình những đồ dùng học tập cần thiết nhất như cặp sách, bút chì, thước kẻ…Trong đó phải kể đến người bạn gần gũi và thân thiết nhất đó chính là những quyển sách giáo khoa trong đó em ấn tượng nhất là quyển Ngữ Văn 9.

Sách như ngọn đèn bất diệt của trí tuệ con người. Bởi sách cung cấp cho chúng ta biết bao nhiêu tri thức. Là nền tảng kiến thức cơ bản vô cùng quan trọng và chung nhất của toàn bộ học sinh trong một chương trình. Riêng cuốn sách Ngữ Văn 9 giúp ta tiếp cận, tìm hiểu, thấy được giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm nổi tiếng trong nước và nước ngoài. Các tác phẩm trong chương trình giúp ta biết được tinh thần bất khuất kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ của dân tộc ta, đồng cảm với số phận của người phụ nữ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. Những kiến thức về Tiếng Việt thì giúp chúng ta trau dồi khả năng sử dụng ngôn từ giúp nâng hiệu quả giao tiếp hằng ngày. Đặc biệt, cuốn sách còn khiến cho rất nhiều học sinh trở nên yêu thích môn văn hơn và việc học môn văn trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Sách có vai trò to lớn như thế nên chúng ta cần có cách bảo quản hợp lý. Khi học nên nhẹ nhàng dở từng trang sách tránh để sách bị rách, bị quăn mép, không được vẽ bậy, tô màu nên hình vẽ trong sách. Khi không học thì cất gọn gàng trên giá nên dùng tranh hoặc bìa cứng bọc sách có dán nhãn vở ghi tên đầy đủ.

Học văn chính là học cách làm người chính vì vậy mỗi chúng ta cần có niềm đam mê, yêu thích môn văn. Và quyển sách giáo khoa Ngữ Văn 9 chính là những mắt xích liên kết cung cấp tri thức giúp chúng ta chuyển cấp dễ dàng hơn.

Học tập là một quá trình lâu dài mà phải đi từ cơ bản đến nâng cao, từ đơn giản đến phức tạp. Để phù hợp cho quá trình này, bộ sách giáo khoa do Bộ giáo dục phát hành là bộ đầy đủ và rất quan trọng cho quá trình học ở tất cả các cấp bậc mà thiết yếu cho người học, đặc biệt là ở những môn học quan trọng và chính thức. Môn ngữ văn là một môn như vậy và quyển sách giáo khoa ngữ văn vô cùng quan trọng cho người học văn. Đối với lớp 9, ở cuối cấp chuẩn bị cho kì thi chuyển cấp thì kiến thức ở đây còn quan trọng bội phần.

Bìa của cuốn sách được in khá đơn giản nhưng không sơ sài. Cuốn sách giáo khoa ngữ văn 9 với khung hình chữ nhật, vừa vặn, gấp sách thẳng, được đóng đẹp đẽ, cứng cáp. Nền cuốn sách có màu hồng phấn. Bên trên cùng của bìa ghi dòng chữ in hoa đậm màu đen: “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO”, xuống bên dưới một chút là dòng chữ màu đỏ nâu: “Ngữ văn” và số 9 màu trắng to ngay bên cạnh. Ở ngay giữa bìa là một cành lá xanh, nhú ra những chùm hoa vàng chúm chím nụ và một quả gấc đỏ nặng trĩu kéo cành rủ xuống. Bên dưới cùng bìa sách là lô gô và dòng chữ đen: “NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM”. Bìa sau cuốn sách in tên những cuốn sách giáo khoa cùng một bộ với hai hàng chữ màu đen.

Cuốn sách như một ngọn đèn hải đăng soi sáng những cánh cửa dẫn đến tương lai của bao thế hệ học trò. Là nền tảng kiến thức cơ bản vô cùng quan trọng và chung nhất của toàn bộ học sinh trong một chương trình. Có được cuốn sách, việc học tập và ôn luyện như có hệ thống sẵn sàng từ lâu, rút ngắn được rất nhiều thời gian tự mày mò tìm kiếm. Cuốn sách đã trở thành cuốn cẩm nang không thể thiếu trong cặp mỗi học sinh học văn và là tài liệu ôn tập đầy đủ và tin cậy cho mọi kì thi cam go nhất. Đặc biệt, cuốn sách còn khiến cho rất nhiều học sinh trở nên yêu thích môn văn hơn và việc học môn văn trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết.

Sách giáo khoa lớp 9 đem lại cho chúng ta không ít lợi ích, chính vì vậy, ta cần thể hiện thái độ trận trọng đối với nó. Chúng ta cần bọc quyển sách gọn gàng sạch sẽ, khi dùng sách tránh để bị ướt, cong mép. Không vẽ bậy lên trang sách, không để sách bị rách, bị vẩy mực. Nên dán nhãn vở và ghi tên cẩn thận để đảm bảo sách không bị thất lạc. Ngoài việc giữ gìn cho sách cẩn thận, thì học tốt môn ngữ văn cũng là một cách để thể hiện lòng biết ơn đối với người làm sách. Chúng ta cần học bài đầy đủ, nhớ những kiến thức trọng tâm cần thiết, chú ý gạch chân phần quan trọng để học tốt hơn.

Để tạo ra được một cuốn sách giáo khoa là công sức của rất nhiều người trong một thời gian dài và cuốn sách giáo khoa ngữ văn 9 là một cuốn sách tốt với lượng kiến thức đầy đủ và bổ ích rất hữu ích cho công việc học văn lớp 9 và ôn tập cho kì thi chuyển cấp quan trọng.

Sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 tập 1 cũng như bao loại quyển vở khác đều có bìa bên ngoài để bảo vệ những trang giấy bên trong quyển sách được trang trí bằng những hình ảnh đẹp.

Phía trên bìa là hàng chữ đầu tiên viết bằng chữ in hoa “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO”. Tiếp đến là hai chữ ” ngữ văn” được viết bằng chữ in với những nét viết mềm mại, uyển chuyển được tô bằng màu xanh đậm. Dưới hai chữ đó là chữ” TẬP MỘT” được viết bằng chữ in nhưng nét chữ nhỏ, thanh màu hồng đậm để phân biệt tập một với tập hai.Phía góc bên phải dưới dòng chữ “Ngữ văn” là số “9” to, màn trắng làm nổi bật cả trang bìa. Trên bìa được trang trí rất đẹp. Phía dưới của trang là lô gô của bộ giáo dục “NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM”. Bài ở cuối sách cũng được ghi viết, bên trái của bìa là huân chương Hồ Chí Minh thể hiện niềm tự hào của dân tộc.

Góc phải là một lô gô của bộ giáo dục có hình ngôi sao trên quyển vở, trong trang ghi năm lăm năm như để khẳng định bề dày lịch sử của sách. Tiếp dưới là phần giới thiệu toàn bộ sách giáo khoa lớp tám được viết ở trung tâm bìa trong khung màu xanh nhạt hình chữ nhật. Cuối bìa là tem dán để nói lên chất lượng uy tín của sách và có giá tiền của sách. Trong giấy của sách được in theo khổ 17x24cm.

Không kém gì về mặt hình thức, sách giáo khoa ngữ văn lớp 9 có phần nội dung rất đa dạng và phong phú, quyển sách gồm nhiều bài học, mỗi bài gồm ba phân môn: văn bản, tiếng việt, tập làm văn. Về phần văn bản cung cấp dữ liệu của phần văn bản truyện thơ,… Sau văn bản là phần chú thích về tác giả, tác phẩm, có phần chú thích giải nghĩa cho các từ khó hiểu trong bài. Sau phần chú thích là đọc hiểu văn bản, muốn học tốt được văn bản thì học sinh cần phải soạn bài, trả lời câu hỏi trong phần này trước ở nhà, chốt lại kiến thức trong văn bản ghi lại trong khung ghi nhớ. Để ứng dụng, thực hành luôn bài học của phần luyện tập để học sinh củng cố lại kiến thức. Nội dung của văn bản nhằm cung cấp cho tuổi học trò về văn học Việt Nam và văn học nước ngoài. Trong quyển có dòng tác phẩm văn học rồi thơ ca, từ vựng như: Bài thơ về Tiểu đội xe không kính – Phạm Tiến Duật, Đồng chí – Chính Hữu. Rồi các bài Kiểm tra về truyện trung đại, Tổng kết về từ vựng (tiếp theo), Nghị luận trong văn bản tự sự, Tập làm thơ tám chữ. Các tác phẩm như Bếp lửa – Bằng Việt, Đoàn thuyền đánh cá – Huy Cận,… Mang đến cho học sinh không chỉ biết đến những tác phẩm văn học trong nước mà còn biết đến những văn học nước ngoài. Về phần tiếng việt cung cấp cho học sinh kiến thức về các loại câu, loại từ và các dấu câu. Phần tập làm văn cũng theo cấu trúc như phần tiếng việt văn bản nhằm cung cấp kiến thức về văn tự sự và kiểu văn bản thuyết minh để củng cố các phương pháp viết văn, giúp nâng cao giao tiếp hàng ngày.

Advertisement

Sách ngữ văn lớp 9 tập một cung cấp cho ta tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng giao tiếp của mỗi học trò. Nó rất quan trọng, gần gũi với mỗi lứa tuổi học sinh lớp 9. Vì vậy cần bảo vệ, giữ gìn, nâng niu và yêu quý sách.

Là con người nếu như muốn thành công thì ai cũng phải trải qua một quá trình học tập và rèn luyện từ những kiến thức cơ bản đến những kiến thức nâng cao hơn, từ những kiến thức đơn giản cho đến những kiến thức phức tạp. Đó là lý do vì sao chúng ta có tới 12 năm đèn sách trên ghế nhà trường. Mỗi một cấp học khối lượng kiến thức học sinh thu nạp vào lại tăng dần. Và nếu không qua lớp dưới thì không thể lên được lớp trên. Đối với những người học văn thì sách giáo khoa Ngữ Văn là một trong những quyển sách vô cùng quan trọng. Riêng với học sinh lớp 9 thì cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 9 là một cuốn sách đặc biệt.

Cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn lớp 9 có bìa in khá đơn giản nhưng không sơ sài. Cuốn sách này có khung hình chữ nhật, từng trang được in chữ đẹp đẽ, đóng gáy cứng cáp. Bìa cuốn sách có màu nền là màu hồng phấn, bên trên có ghi dòng chữ in hoa đậm màu đen: BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO. Ngay phía bên dưới là dòng chữ Ngữ văn màu đỏ nâu và số 9 khá to có màu trắng nằm ngay bên cạnh. Giữa bìa sách có cành giấc lá xanh um, những bông hoa vàng đang chúm chím nụ và còn có cả một quả gấc đỏ kéo cành rủ xuống. Ở phía dưới cùng của bìa sách là dòng chữ đen NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC VIỆT NAM. Bên cạnh đó còn có tem và logo của nhà xuất bản. Ở mặt sau của bìa sách giới thiệu những cuốn sách giáo khoa cùng bộ với cuốn sách Ngữ Văn lớp 9 này.

Nhờ có sách giáo khoa Ngữ Văn 9 mà học sinh tiếp nhận thêm được biết bao nhiêu nguồn tri thức mới, giúp cho cánh cửa tương lai được rộng mở hơn. Đây chính là nền tảng kiến thức cơ bản và quan trọng để học sinh có thể tiếp thu được những bài học sau này. Nhờ có sách giáo khoa mà khối lượng kiến thức đồ sộ được hệ thống lại giúp học sinh dễ học, dễ hiểu, dễ nhớ. Với mỗi người học văn cuốn sách giáo khoa trở thành cuốn cẩm nang không thể thiếu và là tài liệu ôn tập đầy đủ cho mọi kì thi. Nhờ có cuốn sách giáo khoa này mà các học sinh trở nên yêu thích môn học này hơn.

Với những lợi ích mà cuốn sách giáo khoa Ngữ Văn 9 mang lại chúng ta cần có một thái độ trân trọng với nó. Đầu tiên là bọc bìa sách cho gọn gàng, sạch sẽ. Trong quá trình sử dụng sách cần tránh để sách bị ướt, cong mép, rách,… Không vẽ bậy lên trang sách và tránh dây bẩn lên sách. Có thể dán nhãn vở lên bìa sách để tránh cho sách không bị thất lạc. Bên cạnh đó, cách để trân trọng cuốn sách và trân trọng những người làm ra cuốn sách này đó chính là học thật tốt môn Ngữ Văn.

Cầm cuốn sách Ngữ Văn 9 trên tay, chúng ta cần có sự nâng niu, gìn giữ. Học tập tốt kiến thức trong sách giáo khoa sẽ giúp cho học sinh vượt qua kì thi chuyển cấp quan trọng sắp tới.

Văn Mẫu Lớp 8: Thuyết Minh Về Nhà Văn Nguyễn Trãi Dàn Ý &Amp; 9 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 8

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương. Nguyễn Trãi có rất nhiều những đóng góp quan trọng vào nền văn học đương thời và có giá trị đến hiện nay. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết để ngày càng học tốt môn Văn 8.

I. Mở bài:

Nguyễn Trãi người anh hùng của dân tộc được cả thế giới biết đến.

Một nhà quân sự nổi tiếng có công sáng lập ra nhà Hậu Lê và cũng là nhà thơ lớn.

Cuộc đời ông có nhiều điều uất ức và bi thảm nhưng ông để lại nhiều giá trị văn học cho hậu thế.

II. Thân bài:

1. Cuộc đời và sự nghiệp:

Nguyễn Trãi (1380 – 1442), hiệu Ức Trai, quê gốc ở Hải Dương.

Nguyễn Trãi là con của gia đình có truyền thống yêu nước, văn học.

Vào năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh, cả cha và con đều làm quan.

Năm 1407, nhà Hồ khởi nghĩa thất bại, giặc Minh chiếm nước ta, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, còn ông Nguyễn Trãi tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống giặc.

Vào những năm 1428, cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi trước quân Minh, đó cũng là thời gian mà ông viết “Bình Ngô đại cáo”.

Chỉ sau thời gian ngắn, triều đình lục đục, gian lận lộng hành, ông xin về ở ẩn.

Vua mời ông ra phụ giúp việc nước nhưng vào năm 1442 ông dính vào vụ án Lệ chi Viên nổi tiếng, gia đình 3 đời bị xử trảm.

Vụ án Lệ Chi Viên vụ án oan trong lịch sử và được vua Lê Thánh Tông minh oan vào năm 1464.

Nguyễn Trãi được minh oan và trong sạch để lại tiếng thơm muôn đời.

Nguyễn Trãi chính thức trở thành danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1980.

2. Đóng góp vào văn học:

– Không chỉ là nhà quân sự, Nguyễn Trãi có rất nhiều những đóng góp quan trọng vào văn học đương thời và có giá trị đến hiện nay.

– Nguyễn Trãi nhiều tác phẩm nổi tiếng văn chính luận, thơ trữ tình. Các tác phẩm của ông được viết bằng chữ Nôm và chữ Hán.

Ông là nhà thơ trữ tình xuất sắc với các tập thơ: “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”. Qua đó đã khắc họa được hình tượng người anh hùng vĩ đại với lí tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân lúc nào cũng thiết tha, mãnh liệt; phẩm chất và ý chí ngời sáng.

Thơ trữ tình Nguyễn Trãi có đóng góp lớn cho văn học dân tộc từ sự phát triển của ngôn ngữ (chữ Nôm), Việt hóa thể thơ Đường và sáng tạo ra thể thất ngôn xen lục ngôn. Thơ Nguyễn Trãi giàu hình ảnh ước lệ, nhưng cũng mang hơi thở cuộc sống, vừa có khuynh hướng trang nhã vừa có xu hướng bình dị.

Ông là nhà chính luận nổi tiếng: “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”, các thể loại chiếu… Về tư tưởng chủ đạo xuyên suốt những văn bản chính luận của Nguyễn Trãi là nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Còn trong nghệ thuật, văn chính luận của ông đạt trình độ mẫu mực trong việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng biện pháp thích hợp; kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

III. Kết bài:

Nguyễn Trãi không chỉ suốt đời cống hiến cho sự nghiệp “trí quân trạch dân” mà còn đóng góp rất lớn cho sự phát triển của văn học dân tộc. Ông xứng đáng là người hùng dân tộc, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của thời đại.

Cuộc đời của ông để lại nhiều đau thương, bị thảm nhưng tiếng thơm muôn đời và sự kính phục của thế hệ sau.

Nguyễn Trãi là một nhân vật kiệt xuất, là một trong những danh nhân văn hóa thế giới. Ông đại diện cho khí phách và tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và các tác phẩm của ông là những bài ca yêu nước. Ông là một người đa tài, là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài.

Nguyễn Trãi (1380–1442), hiệu Ức Trai. Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống yêu nước. Cha ông – Nguyễn Phi Khanh – là một học trò nghèo đỗ Thái học sinh. Mẹ ông là bà Trần Thị Thái, con gái quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi là người làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng được sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi cho ta thấy cuộc đời ông từ nhỏ đã trải qua nhiều bi kịch. 5 tuổi mồ côi mẹ, sau đó không lâu, ông ngoại cũng qua đời. Ông ở với cha tại làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông trải qua một chuỗi những gian nan, thử thách.

Vào năm 1400, sau khi Hồ Quý Ly lên ngôi vua, ông cho mở khoa thi chiêu mộ người tài. Nguyễn Trãi tham gia và đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 20 tuổi. Nguyễn Trãi được Hồ Quý Ly tin tưởng cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn năm 1374, được cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, quân Minh tràn sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng thua cuộc. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị bắt sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Ông trao cho Lê Lợi bản mưu lược đánh đuổi quân Minh – Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”. Từ đây, ông giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh chống quân Minh xâm lược.

Chủ trương đánh giặc của Nguyễn Trãi là phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến giành thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo cho nhân dân, thì mới xây dựng được đất nước: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”. Nguyễn Trãi là người luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, lúc nào cũng sống giản dị, cần kiệm, liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long ngày nay) chỉ đơn sơ một túp lều tranh. Ngôi nhà của ông ở Côn Sơn cũng “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân).

Năm 1442, vụ án “Lệ chi viên” đột ngột giáng xuống hãm hại ông. Ông và gia đình phải chịu cảnh tru di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước rồi tìm con cháu còn sót lại và bổ nhiệm làm quan.

Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi ta thấy tuy cuộc đời gặp rất nhiều gian truân nhưng ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: về chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ giao thiệp với quân Minh. Những thứ này chứng minh đường lối ngoại giao hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Bình ngô đại cáo “là áng” thiên cổ hùng văn tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và kết thúc thắng lợi… Về sử lược có “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, “Dư địa chí” là tập viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Nguyễn Trãi còn có “Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập” đóng góp vào nền văn chương của nước ta. Nguyễn Trãi đã có công lao to lớn đối với nền văn học nước ta. “Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ Nôm, là bước chuyển mình cho sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt. Nguyễn Trãi là người đứng đầu trong sự nghiệp khơi màu dòng thơ Nôm trong hàng nghìn, hàng vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

Thơ văn của ông thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên và yêu nước, thương dân. Triết lý trong thơ văn Nguyễn Trãi là triết lý thế sự sâu sắc mà giản dị, những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Độc giả còn có thể cảm nhận được trong thơ văn của ông một tình yêu thiên nhiên tha thiết. Đối với ông thiên nhiên là bạn hữu, đó cũng là lý do ông lui về ở ẩn khi triều đình loạn lạc tại Côn Sơn và sáng tác nên bài thơ Côn Sơn ca.

Thơ văn Nguyễn Trãi là một ngôi sao chói lọi trong nền văn học dân tộc, ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho cả văn học và chính trị. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất. Đó là những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về người về đời. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức trí dũng song toàn của Việt Nam thời bấy giờ.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại, là danh nhân văn hóa thế giới. Ông chẳng những góp phần tạo nên các trang hào hùng trong lịch sử nước nhà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học. Nguyễn Trãi đề cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi sáng ngời như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Thời gian có thể làm lu mờ tất cả, nhưng ánh sao khuê ấy vẫn sẽ mãi soi sáng đến các thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi sẽ mãi là niềm tự hào của người dân Việt Nam.

Nguyễn Trãi trong văn học Việt Nam thường được biết đến với vai trò là một tác gia nổi tiếng với nhiều tác phẩm thuộc các lĩnh vực khác nhau, mà ở bất cứ lĩnh vực nào ông cũng để lại những dấu ấn riêng biệt với nhiều tác phẩm xuất sắc. Đồng thời trong lịch sử Việt Nam Nguyễn Trãi còn là một nhà chính trị quân sự lỗi lạc và tài ba, với học vấn uyên thâm, tầm nhìn xa trông rộng, lòng yêu nước sâu sắc, Nguyễn Trãi đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi, trở thành bậc khai quốc công thần đời đầu của triều Hậu Lê. Tuy nhiên bản thân Nguyễn Trãi dù đã lập nhiều công lao, đóng góp xây dựng đất nước nhiều năm thế nhưng lại phải chịu một kết cục thê thảm, liên lụy tam tộc, mà cho đến ngày nay các sử gia vẫn nhiều lần tranh cãi về sự kiện mang tên án oan Lệ Chi viên còn nhiều bí ẩn này.

Bên cạnh sự nghiệp chính trị, quân sự, thì Nguyễn Trãi được biết đến nhiều hơn cả là một bậc kỳ tài có am hiểu trong nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng có những tác phẩm đạt đến trình độ xuất sắc mà ở đó một số đã trở thành mẫu mực, có ý nghĩa tham khảo, nghiên cứu cho các thế hệ về sau. Về phương diện lịch sử, Nguyễn Trãi đã để lại các tác phẩm là Vĩnh Lăng thần đạo bi là bài văn bia kể về thân thế và sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ. Tác phẩm thứ hai là Lam Sơn thực lục, kể về cuộc khởi nghĩa hơn 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn. Ngoài ra còn có Chí Linh sơn phú kể về chuyện nghĩa quân Lam Sơn rút lên núi Chí Linh lần thứ ba năm 1422, và Băng Hồ di sự lục viết về cuộc đời của Tư đồ Trần Nguyên Đán. Về địa lý, Nguyễn Trãi cũng để lại một cuốn Dư địa chí hay còn gọi với các tên khác như Ức Trai thi tập Nam Việt Dư địa chí, hoặc Lê triều cống pháp. Đây được xem là một bộ sách về địa lý cổ nhất của Việt Nam, ghi chép lại những đặc điểm về sản vật và con người Việt thời trung đại, mà cho đến ngày hôm nay bản thân nó vẫn còn những giá trị tham khảo nhất định. Trong chính trị, quân sự Nguyễn Trãi có các tác phẩm rất nổi tiếng là Bình Ngô Đại cáo và Quân trung từ mệnh tập, ngoài ra còn một số các tác phẩm khác bao gồm các bài biểu, bài chiếu viết dưới hai thời vua Lê. Trong lĩnh vực văn học, Nguyễn Trãi để lại nhiều tập thơ xuất sắc viết bằng chữ Hán và chữ Nôm như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập.

Và trong sự nghiệp thơ văn của mình Nguyễn Trãi còn được mệnh danh là một nhà văn chính luận kiệt xuất đồng thời là một nhà thơ trữ tình sâu sắc. Trong đó với tư cách là nhà văn chính luận kiệt xuất, các tác phẩm của ông chủ yếu phục vụ cho sự nghiệp chính trị quân sự, gồm các tác phẩm Bình Ngô đại cáo được xem là bản tuyên ngôn độc lập lần hai, là “áng thiên cổ hùng ca ngàn đời”, không chỉ xuất sắc trong cách hành văn lập luận chặt chẽ sâu sắc mà còn đặc biệt với các giá trị nội dung mang tính thời cuộc. Thứ hai là tập Quân trung từ mệnh tập bao gồm các thư từ gửi tướng lĩnh của giặc trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, có giá trị như các tài liệu ngoại giao, và các bài văn răn đe tướng sĩ, củng cố tinh thần quân đội. Ngoài ra còn có khoảng 28 tác phẩm biểu, chiếu khác nhau. Với nội dung tư tưởng nhân nghĩa, lòng yêu nước thương dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong hầu hết các tác phẩm, kết hợp nghệ thuật lập luận, bố cục chặt chẽ, luận điểm luận cứ linh hoạt, sắc bén. Chính vì vậy nên các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi đều được xem là áng văn chính luận mẫu mực mà người đời sau cần học hỏi.

Với tư cách là một nhà thơ trữ tình sâu sắc, trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Trãi đã sáng tác rất nhiều tác phẩm có giá trị, tuy nhiên vì hàm oan mà hầu như chúng đều bị thiêu hủy, sau này được minh oan, nhưng số lượng thu thập lại cũng chỉ là một phần nhỏ may mắn còn sót lại. Tuy nhiên với bấy nhiêu những tác phẩm cũng đã đủ để thấy được tài năng kiệt xuất của Nguyễn Trãi trong lĩnh vực thơ ca với những sáng tác cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó sáng tác chữ Hán hiện còn tập thơ Ức Trai thi tập, sáng tác chữ Nôm hiện còn Quốc m thi tập – tập thơ viết bằng tiếng Việt đầu tiên duy nhất còn sót lại cho đến ngày hôm nay. Nhìn chung các sáng tác thơ của Nguyễn Trãi đều tập trung thể hiện một nội dung chính ấy là con người Nguyễn Trãi với hình ảnh người anh hùng vĩ đại và con người trần thế. Tính anh hùng thể hiện trong tư tưởng xuyên suốt nhiều tác phẩm ấy là lý tưởng yêu nước thương dân, tấm lòng nhân nghĩa, phẩm cách người quân tử thông qua các hình ảnh tượng trưng: tùng, cúc, trúc, mai. Con người trần thế bộc lộ thông qua những tình cảm của nhà thơ như nỗi đau đớn, xót xa trước nghịch cảnh đất nước, trước những trò nham hiểm, trêu ngươi của xã hội, hay tấm lòng yêu thiên nhiên, niềm vui sống cuộc đời thanh tao, giản dị, những tình cảm bạn bè, vua tôi, cha con sâu nặng tha thiết,…

Với những đóng góp to lớn của mình cho đất nước, Nguyễn Trãi thực xứng danh là một trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam với những công trạng huy hoàng và vĩ đại, được khắc ghi trong lịch sử nước nhà. Trong đó có lẽ quý giá nhất phải kể đến tấm lòng yêu nước sâu nặng, lý tưởng nhân nghĩa lấy nhân dân làm đầu, cùng với tài năng trí tuệ trong lĩnh vực ngoại giao quân sự của mình, Nguyễn Trãi đã góp phần rất to lớn vào khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, mở ra một triều đại mới cho dân tộc. Về văn chương, có thể xem Nguyễn Trãi chính là kết tinh tuyệt vời của hai truyền thống văn học Lý – Trần, cắm một dấu mốc quan trọng trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam, thể hiện cả trên hai bình diện là thể loại và ngôn ngữ.

Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần. Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên, ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 – 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.

Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điểm cơ bản sau:

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chịu những oan khiên thảm khốc, do xã hội cũ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử.

Ông nhà văn, nhà thơ lớn: Là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. “Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là địch vận. “Bình Ngô đại cáo” lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về quá trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” viết về địa lý lịch sử nước ta. “Chí Linh sơn phú” nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán. Năm 1980, Nguyễn Trãi được Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Nói đến Nguyễn Trãi là nói đến một người anh hùng dân tộc đồng thời là Danh nhân văn hoá thế giới. “Nguyễn Trãi là người đầu đội trời Việt Nam, chân đạp đất Việt Nam, tâm hồn lộng gió thời đại bấy giờ” (Phạm văn Đồng).

Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống yêu nước và văn hoá, văn học. Thân sinh là Nguyễn Ứng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, học giỏi, thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán,

Cuộc đời Nguyễn Trãi trải qua nhiều biến cố thăng trầm: Biến cố trong gia đình (mẹ mất lúc 5 tuổi, khi ông 27 tuổi, cha và em bị bắt đày sang Trung Quốc). Biến cố của đất nước (nhà Hồ lên thay nhà Trần, giặc Minh sang xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê, trong thời bình triều đình chia rẽ, rối ren).

Sống trong thời đại bi hùng của lịch sử, cuộc đời Nguyễn Trãi là cuộc đời của một người anh hùng lẫy lừng nhưng lại oan khuất và bi kịch nhất trong lịch sử.

Nguyễn Trãi đã sớm khắc sâu nợ nước thù nhà từ lời dặn của cha năm 1407.

Nguyễn Trãi có công lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và công cuộc chống giặc Minh. Ông tham gia khởi nghĩa từ năm 1417 với tư cách là một quân sư tài ba. Cuối năm 1427, đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo. Sau đó, ông hăm hở tham gia công cuộc xây dựng đất nước.

Nguyễn Trãi không thực hiện được hoài bão của mình trong thời bình. Những mâu thuẫn nội bộ trong triều đình phong kiến dẫn đến việc sát hại các công thần. Nguyễn Trãi tùng bị nghi oan, bị bắt giam rồi được tha. Tình thế ấy buộc ông phải xin về ở ẩn tại Côn Sơn. Chỉ mấy tháng sau, vua Lê Thái Tông lại vời ông ra làm việc. Thật không may, ba năm sau (1442), vua đột tử trong lần đi kinh lý miền Đông. Bọn gian thần nhân cơ hội này đã buộc tội Nguyễn Trãi và khép ông vào tội tru di tam tộc. Năm 1464, Lê Thánh Tông đã minh oan cho Nguyễn Trãi và sưu tầm lại thơ văn của ông.

Ông là một bậc đại anh hùng của dân tộc và là người góp phần xây dựng nên lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Đồng thời, ông cũng là người chịu oan khuất nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là nhân vật toàn tài hiếm có với nhiều đóng góp nổi bật trong mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.

Ông là người có sự nghiệp văn chương đồ sộ với đủ các thể loại trong sáng tác chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Những tác phẩm viết bằng chữ Hán có: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Sáng tác bằng chữ Nôm có Quốc âm thi tập (254 bài thơ chữ Nôm) viết theo thể Đường luật, Đường luật xen lẫn lục ngôn. Ngoài ra, ông còn để lại bộ Dư địa chí – một bộ sách cổ nhất về địa lí của nước ta.

Nói Nguyễn Trãi là nhà văn chính luận xuất sắc vì ông để lại một khối lượng khá lớn các tác phẩm chính luận. Tiêu biểu như: Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu viết dưới triều Lê.

Về giá trị nội dung, những áng văn chính luận của ông có đóng góp lớn cho sự nghiệp chiến đấu và xây dựng đất nước của triều Hậu Lê. Quân trung từ mệnh tập gồm những thư từ gửi cho tướng giặc và những giấy tờ để giao thiệp với triều đình nhà Minh. Tác phẩm là sự kết hợp sáng ngời của chủ nghĩa yêu nước, nhân nghĩa và nghệ thuật viết văn chính luận bậc thầy của Nguyễn Trãi.

Bình Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc ta, là bản cáo trạng đanh thép về tội ác kẻ thù, là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn, là áng văn yêu nước của thời đại. Trong đó, nền tảng của những giá trị đó dựa trên tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước hoà làm một.

Về giá trị nghệ thuật, văn chính luận của Nguyễn Trãi hấp dẫn ở kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, bút pháp thay đổi linh hoạt tùy vào đối tượng và mục đích sử dụng.

Thơ văn Nguyễn Trãi là tâm hồn của ông, trong sáng và đầy sức sống. Cả hai tập thơ Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đã ghi lại hình ảnh Nguyễn Trãi vừa là người anh hùng vĩ đại vừa là con người trần thế.

Con người anh hùng của Nguyễn Trãi thể hiện ở hai khía cạnh: lí tưởng anh hùng và phẩm chất anh hùng. Lí tưởng anh hùng là sự kết hợp nhân nghĩa với yêu nước thương dân. Còn phẩm chất anh hùng thể hiện ở sự mạnh mẽ, kiên trung, vì nước, vì dân chiến đấu chống ngoại xâm và chống cường quyền bạo ngược.

Hoà hợp với con người anh hùng, trong tâm hồn Nguyễn Trãi còn có con người trần thế. Nguyễn Trãi đau nỗi đau của con người và yêu tình yêu con người. Nguyễn Trãi đau nỗi đau cho mình thì ít mà đau đời thì nhiều. Ông thường xót xa cho thói đời đen bạc: “Phượng những tiếc cao diều hãy liệng/ Hoa thường hay héo cỏ thường tươi”. Ông khát khao một cuộc sống thái bình, thịnh trị cho dân: “Rượu năm ba chén đổi công danh! cầu một ngày cõi đời thái bình”.

Tình yêu Nguyễn Trãi dành nhiều cho thiên nhiên, đất nước, con người, cuộc sống. Và đặc biệt, với Nguyễn Trãi: “Lòng yêu thiên nhiên vạn vật là kích thước để đo một tâm hồn” (Xuân Diệu). Thiên nhiên trong thơ chữ Nôm của ông bình dị, dân giã tạo nên một môi trường sống thanh cao mà ở đó con người giữ được những vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn: “Quét trúc bước qua dòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng”. Ông đến với thiên nhiên như về với người bạn tri kỷ để gửi gắm triết lí và tình cảm thân thiết ruột thịt: “Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ ú ấp cùng ta làm cái con”. Nguyễn Trãi luôn dành những tình cảm nồng hậu, ấm áp cho bạn bè, người thân, làng xóm, quê hương…

Có thể nói, khía cạnh con người trong thời anh hùng Nguyễn Trãi chính là vẻ đẹp nhân bản góp phần nâng người anh hùng dân tộc lên tầm nhân loại.

Nói Nguyễn Trãi là nhà thơ trữ tình kiệt xuất còn bởi ông đã đóng góp cho thơ ca Việt Nam những thành tựu nghệ thuật mang ý nghĩa kết tinh trên cả hai bình diện cơ bản là thể loại và ngôn ngữ. Thể thơ thất ngôn xen những câu lục ngôn là những cố gắng lớn của ông trên con đường Việt hoá thơ Đường luật. Ông còn đưa vào trong thơ những chất liệu chưng cất từ ngôn ngữ của đời sống hằng ngày và sử dụng một cách sáng tạo những thi liệu dân gian (ca dao, tục ngữ…).

Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc. Ông đã trở thành một hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần đồng thời mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới. về nội dung: Văn chương Nguyễn Trãi hội tụ hai nguồn cảm hứng là yêu nước và nhân đạo. Nguyễn Trãi đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại. về nghệ thuật: Nguyễn Trãi là người đầu tiên đã đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt về hai phương diện ngôn ngữ và thể loại. Ông đã để lại tập thơ Nôm sớm nhất làm di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo. Cho đến nay, chúng ta vẫn tiếp thu và phát huy những thành tựu thơ ca và văn hoá của Nguyễn Trãi.

Nguyễn Trãi còn mãi với thời gian là người anh hùng dân tộc kỳ tài nhưng cũng là người oan khuất nhất trong lịch sử. Nguyễn Trãi vừa là nhà thơ kiệt xuất vừa là danh nhân văn hoá thế giới. Thơ chữ Hán cũng như chữ Nôm của ông, chính luận hay trữ tình đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một con người vĩ đại và con người đời thường. Ông là bông hoa đầu mùa của thơ Nôm Việt Nam.

Nguyễn Trãi (1380-1442) là nhà chính trị nổi tiếng. Ông đỗ Thái học sinh và ra làm quan dưới thời Hồ. Tuy gia thế hiển hách- mẹ là con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, cha là Nguyễn Ứng Long cũng làm quan lớn dưới triều nhà Trần nhưng Nguyễn Trãi sớm chịu những mất mát đau thương: tang mẹ lúc 5 tuổi, sau đó ông ngoại qua đời khi Nguyễn Trãi mới 10 tuổi. Sau khi đỗ Thái học sinh, ông cùng cha ra làm quan dưới triều nhà Hồ.

Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi, tìm con cháu, sưu tầm lại thơ văn của ông và khẳng định nhân cách, tấm lòng, tâm hồn lớn của Nguyễn Trãi với câu nói nổi tiếng “Ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”.

Nguyễn Trãi còn là một nhà văn, nhà thơ tài ba. Ông là tác giả xuất sắc về nhiều thể loại văn học cả ở lĩnh vực chữ Hán và chữ Nôm. Ông để lại một khối lượng sáng tác lớn với nhiều tác phẩm có giá trị. Đó là “Đại cáo bình Ngô”, “Quân trung từ mệnh tập”, “Lam Sơn thực lục”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”,…

Nguyễn trãi- nhà văn chính luận kiệt xuất. Với tác phẩm “ Bình Ngô Đại Cáo” được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc. Các tác phẩm chính luận của Nguyễn Trãi có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt. Trong đó luận điểm cơ bản cốt lõi là tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Văn chính luận của Nguyễn Trãi đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

Ông còn là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông bộc lộ tâm hồn, con người ông từ khía cạnh bình thường, trần thế hòa quyện với con người anh hùng vĩ đại. Đọc thơ Nguyễn Trãi, ta thấy những nỗi ưu tư trăn trở về dân về nước, thấy được khí tiết thanh cao, lòng yêu thiên nhiên cây cỏ của ông.

Nguyễn Trãi được coi là một thiên tài văn học, văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn của văn học dân tộc là yêu nước và nhân đạo. Ông đem đến cho nền văn học dân tộc thơ Đường luật viết bằng chữ Nôm, gốm phần làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học giàu và đẹp. Năm 1980,Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Nguyễn Trãi là một nhân vật kiệt xuất. Trí tuệ, tài năng và phẩm chất của ông là ánh sao Khuê không bao giờ lụi tắt, soi sáng tới tận muôn đời sau. Ông là “ khí phách của dân tộc, là tinh hoa của dân tộc. Sự nghiệp và tác phẩm của ông là bài ca yêu nước, tự hào dân tộc”. Ông là một người đa tài,ông không những là một nhà chính trị, nhà quân sự, nhà ngoại giao thiên tài đã góp công rất lớn trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mà còn là một tác gia xuất sắc với nhiều tác phẩm sống mãi với thời gian.

Nguyễn Trãi (1380–1442) hiệu là Ức Trai. Ông sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng và yêu nước. Cha ông là 1 học trò nghèo đỗ Thái học sinh – Nguyễn Phi Khanh. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương nhưng sinh ra ở Thăng Long trong dinh ông ngoại, về sau dời về sống ở làng Ngọc Ổi, xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Nguyễn Trãi từ nhỏ đã phải chịu nhiều bi kịch.

Năm ông lên 5 tuổi đã phải chịu cảnh mồ côi mẹ. Sau đó không lâu, ông ngoại cũng qua đời. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê. Cuộc đời của ông là một chuỗi những gian nan, thử thách.

Năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Ông vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh – Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi). Năm 1442, án oan “Lệ chi viên” đột ngột đổ xuống hãm hại ông. Ông và gia đình phải chịu tội chu di tam tộc bi thảm nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Mãi đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước,tìm con cháu còn sót lại và bổ nhiệm làm quan.

Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: về quân sự và chính trị có “Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

“Bình ngô đại cáo ” là áng ” thiên cổ hùng văn ” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà… Về lịch sử có ” Lam Sơn thực lục ” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ” Dư địa chí ” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ.Về văn học, Nguyễn Trãi có ” Ức trai thi tập”, “Quốc Âm thi tập”.

“Quốc Âm thi tập” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.Ông là người đứng đầu trong sự nghiệp khởi nghĩa dòng thơ Nôm trong hàng nghìn, vạn văn chương chữ Hán dày đặc đương thời.

Ngoài ra thơ văn của ông còn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân.Yêu nước gắn với thương dân, việc nhân nghĩa nhằm làm cho nhân dân được sống yên ổn – đó là tư tưởng chủ đạo suốt đời của Nguyễn Trãi.Thơ Nguyễn Trãi thể hiện những triết lí thế sự sâu sắc mà giản dị,những trải nghiệm đau đớn về cuộc đời. Và trong thơ của ông còn tràn đầy tình yêu thiên nhiên, đối với ông thiên nhiên là bầu bạn, là gia đình ruột thịt.

Thơ văn Nguyễn Trãi là đỉnh cao chói lọi trong nền văn học dân tộc, ông là nhà văn có nhiều cống hiến to lớn cho văn học đất nước, cùng với các bài chiếu,biểu, lục, ông đã xây đắp nền móng văn hóa tư tưởng cho dân tộc. Thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi là một thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong, để lại tập thơ xưa nhất và nhiều bài nhất.Đó là những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật.Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí dũng song toàn trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến.Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, ông chẳng những góp phần tạo nên các trang hào hùng trong lịch sử giữ nước mà còn góp phần xây đắp nền móng vững chãi cho văn học dân tộc. Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân, gắn bó thiết tha với cảnh vật thiên nhiên đất nước, thể hiện tình yêu ngôn từ Việt nồng thắm. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Thời gian có thể phủ rêu lên tất cả nhưng ánh sao khuê ấy vẫn sẽ mãi soi rọi đến các thế hệ mai sau. Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi sẽ mãi là niềm tự hào của nước Việt.

Nguyễn Trãi là người tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước thiết tha, là nhà quân sự tài ba, là nhà văn nhà thơ lỗi lạc. Nguyễn Trãi đúng là một đại văn hào của dân tộc, có nhiều đóng góp lớn cho dân tộc nhưng lại là người chịu nhiều bất hạnh oan uổng nhất trong lịch sử phong kiến nước ta.

Advertisement

Nguyễn Trãi hiệu Ức Trai,sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê ở Nhị Khê ( Hà Tây ), phụ thân là Nguyễn Phi Khanh, phụ mẫu là Trần Thị Thái, cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, là người có xuất thân từ dòng dõi quý tộc. Ông là người thông minh từ nhỏ, rất chịu khó học, năm 1400 ông đỗ Thái học sinh. Cuộc đời của Nguyễn Trãi trải qua rất nhiều thăng trầm, lên 6 tuổi mẹ qua đời, ông đỗ Thái học sinh vào năm 20 tuổi. Hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh tràn sang cướp nước ta, Nguyễn Phi Khánh bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi đi theo chăm sóc cha. Sau đó ông đã trở về và làm nên chiến thắng cho dân tộc vào 10 năm sau đó.

Sau khi đất nước trở lại yên bình, chán ngán với chốn quan trường, ông đã xin về ở ẩn. Đến năm 1440 Lê Thái Tông mời ông ra giao việc lớn. Ông đã giúp vua rất nhiều trong việc trị vì đất nước. Mọi chuyện đang diễn ra rất tốt đẹp thì nhà vua chết đột ngột, bọn gian thần vu cho ông âm mưu giết vua, khép tội chu vi tam tộc 1442. Nguyễn Trãi và dòng tộc đã phải mang nỗi oan nghiệt đó suốt 20 năm và đến năm 1464 Lê Thánh Tông mới giải tỏa nỗi oan này cho Nguyễn Trãi, ban chiếu truy tìm hậu duệ còn sót lại của Nguyễn Trãi và ban cho chức quan.

Không chỉ có vậy, Nguyễn Trãi còn để lại cho kho tàng văn học dân tộc rất nhiều những tác phẩm có giá trị. Sau khi bị dính vào nghi án giết vua, nhiều tác phẩm tác phẩm của ông từng bị ra lệnh tiêu hủy. Sau nhiều năm, những tác phẩm giá trị ấy mới được sưu tầm. Ông đã để lại cho kho tàng văn học nhiều tác phẩm có giá trị: về quân sự và chính trị, Nguyễn Trãi có ” Quân trung từ mệnh tập” gồm những thư từ và giấy tờ giao thiệp với giặc Minh và triều đình nhà Lê.

“Bình ngô đại cáo ” là áng ” thiên cổ hùng văn ” trong lịch sử, tổng kết cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh và mở ra một kỉ nguyên mới cho nước nhà… Về lịch sử có ”Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và ” Dư địa chí ” viết về địa lý nước ta lúc bấy giờ. Về văn học, Nguyễn Trãi có ”Ức trai thi tập, Quốc Âm thi tập”. “Quốc Âm thi tập ” được viết bằng chữ nôm, đánh dấu sự hình thành của nền thơ ca Tiếng Việt.

Thơ văn Nguyễn Trãi luôn thấm nhuần tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên, nổi bật trong thơ văn Nguyễn Trãi là tư tưởng nhân nghĩa mang nội dung yêu nước, thương dân. Ông luôn một lòng suy nghĩ, tìm cách để đem lại sự yên bình cho dân. Ông yêu thiên nhiên và coi thiên nhiên là bầu bạn của mình.

Ông để lại nhiều tác phẩm thơ chữ Hán với thế giới thẩm mĩ phong phú, vừa trữ tình, trí tuệ, vừa hào hùng, lãng mạn. Về thơ Nôm, Nguyễn Trãi là người tiên phong và để lại những bài thơ giàu trí tuệ, sâu sắc, thấm đẫm trải nghiệm về cuộc đời, được viết bằng ngôn ngữ tinh luyện trong sáng, đăng đối một cách cổ điển. Nguyễn Trãi là nhà thơ đã sớm đưa tục ngữ vào tác phẩm, ông cũng là người đã sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn, một hình thức khác với Đường Luật. Có thể nói Nguyễn Trãi là một nhân vật tài đức có đủ, trí dũng song toàn trong lịch sử Việt Nam thời phong kiến.

Nguyễn Trãi đúng là một danh nhân lẫy lừng của dân tộc, ông tạo nền tảng cho văn học nước nhà, có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước. Ông là người đã dành hết cuộc đời mình để lo cho dân cho nước. Ghi nhớ công lao của Nguyễn Trãi, năm 1980, Nguyễn Trãi được tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn có đóng góp vĩ đại vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.

Nguyễn Trãi, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế.

Cũng năm 1400, sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.

Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

– Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

– Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi” (thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.

Nguyễn Trãi người anh hùng đại tài không chỉ thể hiện tài năng quân sự mà còn yêu nước hết lòng tận trung ái quốc, yêu mến quê hương đất nước. Ông thể hiện trình độ trong quân sự, đồn thời còn là bậc anh hùng. Nguyễn Trãi con người văn võ song toàn của dân tộc song ông trải qua nhiều bất hạnh oan uổng và trở thành thảm kịch trong lịch sử nước ta.

Nguyễn Trãi (1380-1442) với hiệu là Ức Trai, quê gốc nằm ở tỉnh Hải Dương. Ông trưởng thành trong gia đình mà cha và mẹ đều nổi tiếng.

Nguyễn Trãi khi còn nhỏ chịu nhiều đau thương như 5 tuổi mất mẹ, 10 tuổi mất ông ngoại. Năm 1400, khi nhà Hồ tổ chức kỳ thi, ông đỗ Thái học sinh, cha với con đều cùng nhau làm quan nhà Hồ.

Năm 1407, giặc Minh tấn công xâm lược đất nước, nhà Hồ thất thủ, trong khi đó cha là Nguyễn Phi Khanh bị bắt sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi uất ức nhưng không thể làm gì khác đành tham gia nghĩa quân Lam Sơn kháng chiến chống giặc Minh.

Vào thời gian năm 1428, khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi giặc Minh thành công, Nguyễn Trãi viết “Bình Ngô đại cáo”.

Sau một thời gian làm quan, vào năm 1439, triều đình có nhiều biến chuyển khi gian thần lộng hành khắp nơi. Chán nản Nguyễn Trãi xin vua quay về ở ẩn.

Năm 1440, Lê Thái Tông kêu gọi nhân tài nên mời ông ra làm quan và giúp việc nước. Ông nghe lời vua bèn ra sức cứu dân độ thế. Năm 1442, Nguyễn Trãi và vợ của mình dính vào oan án Lệ Chi Viên hãm hại vua, bị kết tội bi thảm: tru di tam tộc.

Ông và gia đình 3 đời bị xử trảm. Lệ Chi Viên vụ án thảm khốc nhất trong lịch sử nước nhà .

Mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông chính thức minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi được công nhận danh nhân văn hóa thế giới vào năm 1980.

Nguyễn Trãi có nhiều đóng góp cho văn học nước nhà. Ông sáng tác nhiều tác phẩm chữ Nôm và chữ Hán, văn chính luận, thơ trữ tình.

Các tác phẩm xuất sắc như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo” và nhiều chiếu, biểu, có giá trị khác. Các tác phẩm ông có tư tưởng chính đó là sự nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Hai tập thơ “Ức Trai thi tập” (chữ Hán) và “Quốc âm thi tập” (chữ Nôm) nằm trong số các tác phẩm vô cùng giá trị.

Thơ trữ tình của ông giản dị, giàu hình ảnh có tính ước lệ. Nguyễn Trãi thiên tài văn học nổi tiếng có sự kết tinh của tinh thần Văn học Lí – Trần. Nội dung, thơ Nguyễn Trãi có sự kết hợp giữa lòng yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.

Nguyễn Trãi nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn trong lịch sử Việt Nam. Ông thiên tài quân sự và giàu lòng yêu nước, thương dân. Đúng như vua Lê Thánh Tông truy tặng “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Tên tuổi ông sẽ mãi mãi sáng như ánh sao khuê, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Lễ Hội Chọi Trâu Ở Đồ Sơn Dàn Ý &Amp; 4 Bài Văn Thuyết Minh Lớp 9

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đậm đà bản sắc dân tộc, mang nhiều giá trị thể hiện truyền thống lịch sử và phẩm chất, tâm hồn của người dân miền biển. Con trâu được chọn tham gia chọi là trâu đực to khỏe, da hồng, lông móc, ngực nở…. Mời các em cùng tham khảo bài viết để hiểu rõ hơn, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý Thuyết minh về lễ hội chọi trâu

1. Mở bài:

Giới thiệu vấn đề cần thuyết minh.

2. Thân bài:

a. Nguồn gốc, thời gian:

Là một tập tục, truyền thống có có từ rất lâu đời của những người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, tỉnh Hải Phòng được giữ gìn và phát triển cho tới ngày hôm nay.

Lễ hội diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm.

Vào năm 2013 vinh dự được xếp vào một trong những Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.

Xuất phát từ thần tích “Tước Điểm Đại Vương” – vị Thủy Thần cai trị vùng biển Đồ Sơn.

b. Ý nghĩa:

Để ghi nhớ công ơn của các vị thủy thần, cầu mong cho công việc đánh bắt được thuận lợi, mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy ghe, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các làng xã với nhau.

Bộc lộ được những nét đẹp trong sinh hoạt cộng đồng của người dân miền biển, có sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa nông nghiệp vùng đồng bằng với văn hóa cư dân miền biển.

c. Nội dung lễ hội:

– Chọn trâu:

Trâu chọi được người dân lựa chọn trước một năm từ những vùng đất nổi tiếng với giống trâu đẹp, khỏe, để đem về nuôi dưỡng chăm sóc và huấn luyện suốt một năm.

Con trâu chọi đạt chuẩn là những con trâu đực to khỏe, da hồng, lông móc, ngực nở, tấm lưng dày rộng, háng rộng và thu nhọn về phía sau, sừng phải đen bóng, lông trên đầu cứng, giữa hai sừng có xoáy tròn, mắt đen, trong đỏ,…

– Trường đấu hay trường tổ chức chọi trâu là một khu đất rộng diện tích khoảng 800m vuông, bên ngoài có hào nước bao quanh, xung quanh bố trí khán đài.

– Phần lễ bắt đầu từ ngày mùng 1 đầu tháng khi cách vị cao niên có vai vế trong làng tiến hành làm lễ tế Thủy Thần ở đình tổng, sau đó là lễ rước nước, lọ nước thần sẽ được rước về các đình riêng của mỗi làng.

– Tiếp theo các nhà có trâu chọi phải đem trâu ra làm lễ tế Thành Hoàng, sau khi hoàn tất lễ trâu được gọi một cách tôn kính là “ông Trâu”.

– Đến ngày 9/8 âm, lễ hội chọi trâu chính thức diễn ra.

– Khi trâu được đưa vào đấu trường, đứng đúng vị trí, lần lượt tiếng trống, tiếng loa đồng loạt nổi lên, cổ vũ tinh thần mạnh mẽ, kết hợp với nghi thức múa cờ do 24 thanh niên trai tráng trong các làng được tuyển chọn, để gia tăng khí thế và mở màn hội chọi trâu.

– Kết thúc múa cờ, trâu được dẫn vào vị trí cách nhau 20m, người chủ trâu nhanh chóng rút vật giữ trâu còn gọi là “sẹo” để trâu tự do lao vào nhau chiến đấu trong tiếng hò reo cổ vũ từ bên ngoài.

– “Ông trâu” chiến thắng lại được rước về Đình tổng bằng nghi lễ trang trọng, rồi đợi đến ngày 10/8 toàn bộ trâu đã tham gia thi đấu sẽ được đem đi giết thịt để hiến tế và khao cả làng.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.

Thuyết minh lễ hội chọi trâu Đồ Sơn

Hải Phòng là vùng đất có nhiều di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh mang đậm nét đặc trưng của miền biển. Trong số những di sản văn hóa ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Đây là lễ hội có nhiều nét đặc sắc về phong tục văn hóa và lịch sử, để lại nhiều ấn tượng cho du khách thập phương.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn thể hiện bản sắc văn hóa và tinh thần thượng võ của người dân miền biển. Theo truyền thuyết, lễ hội chọi trâu đã có từ thế kỉ 18, được tổ chức để cầu hạnh phúc và thịnh vượng cho người dân địa phương. Người dân Đồ Sơn vẫn truyền nhau sự tích về lễ hội chọi trâu: Một đêm rằm tháng 8, người dân miền biển nhìn thấy một ông tiên đang say sưa ngắm hai chú trâu đang chọi nhau. Từ đó, lễ hội chọi trâu trở thành một phần đặc biệt trong đời sống tâm linh của người Đồ Sơn.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được tổ chức vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm. Lúc này, lúa ngoài đồng đang thì con gái, ngư dân cũng vừa kết thúc mùa cá, mọi người nô nức chuẩn bị cho lễ hội chọi trâu. Trường đấu để chọi trâu là những bãi đất rộng, có hào nước bao quanh. Những chú trâu được tuyển chọn vô cùng kĩ lưỡng để tham gia cuộc thi. Trâu phải là những chú trâu đực khỏe mạnh, da bóng, lông mượt, đặc biệt sừng trâu phải đen như gỗ mun, vểnh lên như lưỡi liềm. Giống như bao lễ hội khác, lễ hội chọi trâu cũng có 2 phần là phần lễ và phần hội. Phần lễ với những nghi lễ truyền thống và trang trọng bao gồm lễ tế thần Điểm Tước, sau đó là lễ rước kiệu bát cống. Phần lễ rộn ràng trong tiếng trống, cờ ngũ sắc bay phấp phới. Phần hội diễn ra vào ngày chính hội (9/8) với nhiều hoạt động hấp dẫn, đậm đà bản sắc dân tộc. Mở đầu là điệu múa khai hội của 24 tráng niên vừa uyển chuyển, mạnh mẽ vừa linh hoạt. Múa cờ xong, hai ông trâu được dẫn vào trong sới trong âm thanh của tiếng trống, thanh la, có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai ông trâu cách nhau 20m, người dắt lùi ra. Hai chú trâu hoàn toàn tự do lao vào tấn công nhau dữ dội. Trận chọi trâu diễn ra vô cùng gay cấn, ác liệt, làm cho người xem theo dõi đến nghẹt thở. Đây là cơ hội để cho trâu thể hiện hết những kĩ năng và kinh nghiệm của mình. Sự dũng mãnh, ngoan cường của trâu còn là biểu tượng cho khí phách và tinh thần thượng võ của người dân Đồ Sơn. Chú trâu chiến thắng mang lại nhiều vinh dự và hãnh diện cho chủ trâu. Kết thúc lễ hội, dù thắng hay thua, các chú trâu sẽ được mổ thịt để lễ tế trời đất, cầu thời tiết thuận lợi, mùa màng thuận hòa, sóng yên biển lặng để người đi biển đánh bắt được may mắn, thuận lợi.

Lễ hội chọi trâu không chỉ mang lại niềm vui cho người xem mà còn là một tục lệ, tín ngưỡng độc đáo, giàu giá trị văn hóa và lịch sử. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được công nhận là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, là một điểm đến hấp dẫn với nhiều khách du lịch.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là lễ hội đậm đà bản sắc dân tộc, mang nhiều giá trị thể hiện truyền thống lịch sử và phẩm chất, tâm hồn của người dân miền biển. Chúng ta cần có trách nhiệm giữ gìn và phát triển hơn nữa bản sắc tốt đẹp của lễ hội chọi trâu để góp phần bảo tồn những giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc.

Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Mẫu 1

Lễ hội chọi trâu có từ bao giờ và bắt đầu từ đâu thì không ai biết, nhưng những truyền thuyết về lễ hội này thì có rất nhiều, mỗi truyền thuyết đều gắn với một sự tích kỳ bí khác nhau nhưng tất cả đều khẳng định: Hội chọi trâu là mỹ tục hào hùng mang đậm tính thượng võ, tính táo bạo và lòng quả cảm rất độc đáo của người Đồ Sơn.

Để có những ngày hội náo nức, người dân Đồ Sơn phải chuẩn bị rất công phu trong khoảng 8 tháng trời. Theo người dân Đồ sơn thì điều quan trọng bậc nhất là việc tìm và nuôi dưỡng trâu. thông thường, sau Tết Nguyên đán, các sới chọi đều cử người có nhiều kinh nghiệm đi khắp nơi để mua trâu, có khi họ phải lặn lội hàng tháng trời vào các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Nam Định, Thái Bình, thậm chí lên tận tuyên Quang, Bắc Kạn mới tìm được con trâu vừa ý.

Qua nhiều năm lặn lội tìm mua trâu, người Đồ Sơn nhận thấy rằng, những con trâu mua được ở chợ Gồi (Nam Định), Thủy Nguyên(Hải Phòng), Thanh Hà (Hải Dương) thường “giật” giải nhiều hơn. bởi thế, cứ sau Tết âm lịch hằng năm, người Đồ Sơn lại đổ xô đến những địa phương trên các bản khác mua trâu.

Một chủ trâu có nhiều năm kinh nghiệm cho biết: “chọn trâu là một công việc cầu kỳ và tỉ mỉ, trâu đủ tiêu chuẩn phải là những con trâu đực khỏe mạnh, có khả năng chống chịu được đòn của đối phương (nghĩa là phải gan lỳ). Thông thường, những chú trâu da đồng, lông móc,một khoang bốn khoáy, hàm đen, tóc tráp (lông trên đầu cứng, dày để tránh nắng)… là trâu gan. Trâu phải có ức rộng, cổ tròn dài và hơi thu nhỏ về phía đầu, lưng càng dày, càng phẳng càng tốt. Háng trâu phải rộng nhưng thu nhỏ về phía hậu càng nhọn càng quý. Sừng trâu phải đen như mun, đầu sừng vênh lên như hai cánh cung, giữa hai sừng có túm tóc hình chóp trên đỉnh đầu là khoáy tròn. Mắt trâu phải đen, tròng đỏ. mặt trâu giống mặt ngựa là trâu chọi hay…”.

Việc chọn mua trâu đã khó khăn, việc chăm sóc, huấn luyện trâu càng khó khăn gấp bội. Những người được giao nhiệm vụ chăm sóc huấn luyện trâu thường là những người có nhiều kinh nghiệm. trâu chọi được nuôi ở chuồng riêng, tách biệt và kín đáo. Điều đặc biệt là không được để cho trâu chọi trông thấy trâu nhà cốt để trâu chọi khôi phục bản năng hoang dã, đơn độc của nó. Trường huấn luyện trâu thường là những bãi đất rộng, có nhiều người đứng xung quanh gõ chiêng trống và hò hét.

Khi huấn luyện, người ta còn phủ cờ đỏ lên đầu trâu,mình trâu để cho trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện còn dạy cho trâu có những miếng đánh hay, đòn hiểm và độc đáo.Sau khi huấn luyện, trâu nào được chọn làm trâu chọi sẽ được gọi một cách tôn kính là “ông trâu”. Trâu nào đoạt giải nhất, được tôn lên thành “cụ trâu”.

Ở Đồ Sơn, phường nào cũng có người mê trâu chọi, có kinh nghiệm tìm mua trâu, chăm sóc, huấn luyện trâu chọi, những người này được coi là nghệ nhân. Trong ngày lễ hội, tên của họ được nhắc đến với tư cách là chủ của “ông trâu”.

Mở đầu hội chọi trâu là lễ tế thần Điểm Tước (vị thuỷ thần, và cũng là Thành hoàng làng của cả vùng Đồ Sơn). Lễ tế thần ngày hội chọi trâu là lễ lớn nhất trong năm của người Đồ Sơn. Thời gian gần đây, những thủ tục của phần lễ ngày càng bị xem nhẹ, đơn giản hóa. Tuy nhiên, phần hội chọi trâu luôn có sức hấp dẫn lạ kỳ thu hút đông đảo du khách bốn phương đến cổ vũ.

Vào hội, ai cũng náo nức, hồi hộp, chờ đợi. Từ hai phía của sới chọi, “ông trâu” được dẫn ra có người che lọng và múa cờ hai bên. Khi hai “ông trâu” cách nhau 20m, người dắt nhanh chóng rút”sẹo” cho trâu rồi khẩn trương thoát ra ngoài sới chọi. Hai trâu lao vào nhau với tốc độ khủng khiếp, hai đôi sừng đập vào nhau kêu chan chát. Cứ thế, hai trâu chọi nhau quyết liệt giữa tiếng hò reo vang dậy của hàng ngàn khán giả.

Kết thúc hội chọi trâu là một cuộc rước giải trâu nhất về đình làm lễ tế thần. Cuộc rước này phải có tất cả mọi người dân đồ Sơn (cả chủ trâu thua cuộc) biểu thị sự đoàn kết, vô tư, cùng đồng lòng mừng ngày vui chung. Trâu nhất hàng tổng được phần thưởng là một lá cờ vóc hồng thêu hai chữ “Thượng Đẳng” bằng kim tuyến, một bát hương bằng đá xanh đem theo đám rước trở về.

Theo tập tục của địa phương, các trâu tham gia chọi,dù thắng, dù thua, đều phải giết thịt, dân Đồ Sơn lấy một bát tiết cùng một ít lông của trâu (mao huyết) để cúng thần, sau đó đổ xuống ao để tiễn thần. Du khách đến dự lễ hội có thể mua thịt trâu về ăn để cầu may và chúc phúc.

Với những nét văn hóa truyền thống độc đáo vốn có, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã trở thành một sản phẩm du lịch độc đáo thu hút du khách bốn phương đến với Hải Phòng. Năm 2000, Lễ hội chọi trâu đồ sơn được Nhà nước công nhận là một trong 15 lễ hội lớn của cả nước.

Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Mẫu 2

Theo truyền thuyết và thần tích thì lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn là lễ hội cầu thịnh vượng và hạnh phúc cho người dân địa phương có từ thế kỉ thứ XVIII. Một vùng đất gồm những cư dân nhiều nơi về đây khẩn hoang, sinh cơ lập nghiệp.

Lễ hội chọi trâu nhằm tôn vinh Thuỷ thần, diễn ra vào ngày 9 tháng 8 âm lịch hàng năm, tại thị xã Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng.

Để có những con trâu vào cuộc đấu giành thứ bậc cao (trận chung kết) trong ngày chính hội (9/8 âm lịch), vòng đấu loại phải thực hiện trước đó (tháng 6 âm lịch). Theo tục lệ, ba làng Đồ Sơn, Đồ Hải và Ngọc Xuyên đều có trâu tham gia trận chung kết. Lệ căn cứ vào “suất đinh” trong số 18 giáp ở ba làng để chọn ra số trâu được thi đấu vòng cuối của mỗi làng.

Ngày hội chính, nhiều người dân từ Trà cổ (Quảng Ninh) cũng đi thuyền kéo nhau về dự hội, vì Đồ Sơn là đất tổ của họ (Trà cổ có tổ Đồ Sơn). Người dân khắp nơi trong thành phố và nhiều tỉnh thành ở xa tấp nập tới dự hội:

Thời gian mở hội đã là bài ca truyền tụng từ lâu đời trong dân gian.

Chọi trâu Đồ Sơn diễn ra trong một buổi, ít khi kéo dài tới một ngày! Cuộc đấu có khi chỉ trong khoảnh khắc là quyết định. Khâu chuẩn bị cho giờ phút giao đấu quyết liệt ấy lại rất công phu và vô cùng thận trọng, vì đây là “Sự thần”.

Địa điểm mở hội là đình tổng Đồ Sơn. Cờ hội giăng giăng trước cửa đình. Cọc phân định mốc giới sới chọi đã được căng dây trên bãi đất rộng chừng 20.000 mét vuông. Khán đài dành cho các quan khách được dựng lên và trang trí lộng lẫy. Hai bên sới chọi có dựng các chuồng cho trâu chờ xuất trận. Hai lá cờ hội lớn được cắm ở hai đầu sới.

Các trâu chọi của các làng vào Xào Xá. Người rước trâu thần phải tắm rửa sạch sẽ sao cho thật thanh khiết, mặc áo dài, thắt lưng đỏ; đội nón lá dứa. Trâu thần cũng được trang trí, lưng trùm vải đỏ, sừng buộc những dải lụa điều.

Lễ dâng hương mở hội bắt đầu ở đền Nghè thuộc phường Vạn Ninh. Sau đó là lễ rước kiệu bát cống, long đình cờ thần bay phấp phới, rộn rã trong tiếng nhạc bát âm dẫn trâu đi trình thành hoàng làng. Điệu múa khai hội được 24 tráng niên Đồ Sơn chia thành hai hàng trình diễn vừa uyển chuyển, vừa mạnh mẽ. Màu sắc biến hóa linh hoạt và huyền ảo. Tay vung cờ, chân tiến lùi trong tiếng trống trận. Những lá cờ vung lên quật xuống mạnh mẽ, dứt khoát, nhịp nhàng. Có lúc cờ phất tròn như dải lụa quấn lấy thân người. Múa cờ dàn theo hình thế trận, bên tả, bên hữu, lúc như đan chéo vào nhau như hai đội quân đang giao chiến.

Hội chọi trâu là một ngày hội gắn với tục thờ cúng thuỷ thần và tục hiến sinh; nhưng bên cạnh những tập tục đó là tinh thần thượng võ của người dân Đồ Sơn, Hải Phòng.

Thuyết minh về lễ hội chọi trâu – Mẫu 3

Lễ hội chọi trâu có tên gọi khác là đấu ngưu. Chẳng ai biết nó có tự bao giờ nhưng từ lâu đã trở thành tập tục truyền thống gắn liền với người dân vùng biển Đồ Sơn- Hải Phòng. Hàng năm cứ vào dịp tháng 8 âm lịch, người dân cả nước lại nô nức kéo về Đồ Sơn để tham dự lễ hội đặc sắc này.

Lễ hội chọi trâu bắt đầu từ tháng 6 âm lịch nhưng mọi công đoạn đều được chuẩn bị ngay từ tháng giêng. Theo người chọi trâu, để có những ngày hội náo nức nhất. công đoạn công phu nhất đó là chọn trâu, nuôi dưỡng và huấn luyện châu. Để có những con trâu khỏe thì giống châu phải tốt. Sau tết nguyên đán, các sới chọi trâu đều cử người của mình xuống các vùng để tìm mua trâu. Những con trâu ưng ý là những con trâu đực to và khỏe, da đồng, lông dày và cứng, ức rộng, cổ tròn dài lưng càng dày, phẳng. Háng trâu phải rộng . Sừng trâu đen, đầu sừng vênh lên. Mắt trâu đen, có tròng đỏ. Qua bao năm tháng lặn lội kiếm tìm, họ đúc kết và truyền tai nhau rằng: Những con trâu mua được ở Chợ Gồi (Nam Định), Thái Bình, Tuyên Quang, Hải Dương là những con trâu có sức chiến mạnh và chiến thắng. Do đó cứ đúng dịp là người dân lại xuống các vùng này để tìm mua trâu.

Advertisement

Việc chọn mua trâu đòi hỏi phải có con mắt tinh tế, tỉ mỉ và kĩ lưỡng. Sau công đoạn mua trâu, người chủ sẽ mang trâu về sới để nuôi dưỡng và huấn luyện. Chọn trâu đã khó, nuôi trâu và huấn luyện trâu lại càng khó gấp bội. Nuôi trâu phải là những đấu thủ có kinh nghiệm dày dặn lâu năm. Trâu mang về được nhốt trong chuồng riêng, kín đáo, tách biệt với trâu nhà. Thức ăn cho trâu là loại cỏ như cỏ gừng, lông; vào mùa đông cây cỏ khan hiếm thì phải bổ sung rơm rạ, cám và ngô để cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho trâu. Bên cạnh việc chọn cỏ thì việc vệ sinh chuồng trại và cơ thể cho trâu cũng được các quản ngưu hết sức chú trọng. Những người nuôi trâu phải tỉ mỉ, kì cọ sạch những bụi bẩn trên da và lỗ tai, phải lấy sạch đất cát từ sừng và móng để tránh bị làm mòn ảnh hưởng đến chất lượng chiến của trâu.

Trường dùng để huấn luyện trâu thường là những khu bãi đất rộng, có nhiều người vây quanh gõ chiêng trống hò hét. Khi huấn luyện các đấu thủ phủ lên mình trâu một tấm vải đỏ để trâu quen dần với không khí của ngày hội. Người huấn luyện khéo léo dạy cho trâu những ngón đòn hiểm, những miếng vỏ đá, húc để lật thủ đối phương. Đặc biệt để trâu thuần phục và đạt hiệu quả cao nhất thì người huấn luyện phải dành cho trâu một tình cảm yêu quý, gắn bó. Sau nghi thức tế đình và huấn luyện trâu được ưu ái gọi với cái tên “ông trâu”.

Lễ hội chọi trâu bao gồm 2 phần: phần lễ và phần hội. Hai phần này không tách riêng biệt mà đan xen với nhau. Ngay từ mùng 1 tháng 9 âm lịch các vị cao niên ở các làng có trâu chọi đã làm lễ tế thần Điểm Tước ở Đình Tổng. Sau đó là lễ rước nước cùng với tục tế Thủy Thần. Mỗi làng sẽ được ban một lọ nước thánh và đem về đình riêng.

Ngày chính hội diễn ra vào mùng 9 tháng 8 âm lịch. Ngay từ tờ mờ sáng, các nghi thức lễ tế tại đình thành làng đã được tiến hành tổ chức. Xong xuôi các nghi thức là lễ rước trâu đi thi đấu. Dẫn đầu đám rước là trống chiêng, cờ hoa bát bửu rộn rã. Tiếp theo là các bô lão và các chú trâu được sắp xếp theo phân loại vòng đấu bảng. Mỗi chú trâu được phủ một tấm vải đỏ, sừng quấn tấm lụa điều, hai bên là hai chàng trai tay cầm cờ đuôi nheo để múa. Đoàn rước đi đến đấu, trống chiêng tưng bừng, hừng hực khí thế đến đó. Mọi người dân cũng đều nô nức nối đuôi nhau từng đoạn tấp nập rước trâu vào xá thi đấu.

Trâu bước vào xá trong tiếng trống, tiếng lo dõng dạc, hào sảng đất trời. Khai hội là tiết mục múa cờ được biểu diễn điêu nghệ, tài hoa bởi 24 tráng sĩ.

Múa cờ vừa dứt 2 ông trâu được dắt vào sới với tư thế hiên ngang, lọng cờ hoa náo nhiệt. Khi hai ông trâu chỉ còn cách nhau khoảng 20m người dắt nhanh chóng rút sẹo trâu rồi khẩn trương nhảy ra khỏi sới chọi. Lúc này trong sới chỉ còn 2 ông trâu tự do chiến đấu, quyết liệt tranh giành thắng bại. Con trâu thắng chung cuộc được tôn làm “cụ trâu” được ban một lá cờ vóc hồng thêu gấm “Thượng đẳng” bằng kim tuyến và một bát hương bằng đá xanh long trọng rước trở về làng.

Sáng ngày mùng 10/8 toàn bộ các chú trâu tham gia trong lễ hội đều được mang giết thịt làm lễ tế vật ở thần đình. Vật tế gồm một đĩa tiết trâu và lông trâu. Kết thúc lễ tế đĩa tiết trâu và lông trâu được đem đổ xuống biển, phần còn lại đem phân phát, ban lộc cho người dân trong vùng.

Ngày 16/8, làng tiến hành nghi thức cuối cùng là tống thần. Sau nghi thức này, lễ hội kết thúc.

Chọi trâu Đồ Sơn là vẻ đẹp giao thoa của tinh hoa văn hóa nông nghiệp đồng bằng với văn hóa cư dân miền biển. Lễ hội chính là biểu trưng cho ước nguyện mưa thuận gió hòa, sóng yên biển lặng, khát vọng ấm no, vụ mùa khai thái bình an, nhiều tôm cá- một bản sắc văn hóa tinh thần rất riêng rất độc đáo của cư dân miền biển đồ Sơn.

Văn Mẫu Lớp 9: Thuyết Minh Về Cây Dừa (Dàn Ý + 18 Mẫu) Văn Thuyết Minh Lớp 9 Hay Nhất

Dừa cũng có rất nhiều loại như dừa xiêm, dừa lửa, dừa sáp, dừa dâu, dừa dứa, dừa nếp… Nước dừa uống ngọt mát, bổ dưỡng được rất nhiều người yêu thích. Với 18 bài văn thuyết minh cây dừa sẽ giúp các em hiểu sâu sắc hơn, ngày càng học tốt môn Văn 9.

Dàn ý thuyết minh về cây dừa

I. Mở bài

– Không biết từ bao giờ mà cây dừa đã đi vào thơ ca rất đỗi thân thuộc và trìu mến, cây dừa là một loại cây rất quen thuộc và ý nghĩa đối với cuộc sống của người dân.

– Cây dừa gắn bó thủy chung son sắt với con người.

II. Thân bài

1. Nơi phân bố

Trên thế giới: Dừa thường phân bố ở vùng châu Á, Thái Bình Dương.

Ở Việt Nam: Dừa thường tập trung từ Quảng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.

2. Đặc điểm

a. Cấu tạo

Thân dừa: Cây dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân.

Lá: Lá dài, xanh và có nhiều tàu.

Hoa: Trắng và nhỏ.

Quả: Phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày, bên trong có cùi và nước.

Buồng dừa: Chứa các quả dừa, mỗi buồng thường có khoảng mười lăm quả.

b. Khả năng sinh sống

Thường sống ở khí hậu nhiệt đới.

Phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt.

Dừa cần độ ẩm cao (70 – 80%) để có thể phát triển một cách tối ưu.

Phát triển trong khu vực khô cằn.

3. Phân loại

Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống.

Dừa bị: Trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm.

Dừa nếp: Trái vàng xanh mơn mởn.

Dừa lửa: Lá đỏ, quả vàng hồng.

Dừa dâu: Trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ.

Dừa dứa: Trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm mùi dứa nên gọi là dừa dứa.

Dừa sáp: Cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu Kè (Trà Vinh).

4. Công dụng

Nước dừa: Thường được dùng làm nước uống, kho cá, nước chấm…

Cơm dừa: làm kẹo, mứt hay làm nước cốt dừa…

Dầu dừa: nấu ăn, dưỡng tóc, dưỡng da…

Xơ dừa: dùng làm dây thừng…

Thân dừa: làm cột nhà, làm cầu bắt qua sông…

Hoa dừa: dùng để trang trí…

Gáo dừa: dùng để nấu ăn hay vật dụng trong gia đình….

Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ.

Làm đồ thủ công mỹ nghệ.

Dừa có thể một số bệnh như: Khản tiếng, lỵ, giải độc….

5. Ý nghĩa của cây dừa

Trong đời sống

Trong nghệ thuật: văn học, âm nhạc…

III. Kết bài

Dừa là một người bạn rất hữu ích với người dân quê Việt Nam. Dừa rất có ích cho cuộc sống và tinh thần của người dân.

Thuyết minh cây dừa ngắn gọn

Việt Nam là quốc gia gắn liền với nền nông nghiệp với cây trái xanh tốt quanh năm. Một trong những loài cây mang lại giá trị kinh tế cao và thân thuộc với con người chính là cây dừa.

Dừa là loại cây thường sống ở khí hậu nhiệt đới, phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường (750–2.000 mm hàng năm), điều này giúp nó trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Ở Việt Nam có nhiều giống dừa khác nhau rất đa dạng: dừa xiêm, dừa lửa, dừa nếp, dừa sáp,… mỗi loại có một đặc điểm khác nhau nhưng cùng mang lại giá trị kinh tế cao cho con người.

Trung bình một câu dừa cao từ 10m trở lên. Thân cây cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân. Lá dài, màu xanh, có nhiều tàu. Trên phía ngọn dừa mọc ra chùm hoa trắng nhỏ, chùm hoa đó lớn dần thành buồng quả, mỗi buồng thường có 15 quả. Quả phát triển từ hoa, vỏ ngoài màu xanh, dày, bên trong có cơm dừa màu trắng và nước dừa trong suốt, có vị ngọt thanh mát.

Dừa là giống cây hữu ích. Các bộ phận của dừa đều mang lại công dụng tốt cho con người. Nước dừa có giá trị dinh dưỡng cao dùng để uống trực tiếp hoặc chế biến với các món ăn (thạch dừa, nấu chè, kho cá, kho thịt,…). Phần cơm dừa làm kẹo, mứt hay làm nước cốt dừa, dầu dừa,…; thân dừa được dùng làm cột nhà, làm cầu bắt qua sông,…

Từ những công dụng hữu ích trên, cây dừa xứng đáng là người bạn thân thiết của con người Việt Nam.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 1

Dừa là một loại cây trồng phổ biến ở các vùng quê khắp cả đất nước, đặc biệt tập trung nhiều ở các miền ven biển nước ta. Cây dừa đóng góp rất nhiều lợi ích vào trong đời sống của con người, trở thành cây trồng quen thuộc, hữu ích và kinh tế cao.

Dừa có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á, sau đó trở nên phổ biến khắp thế giới nhờ những dòng chảy của biển mang quả dừa khô đi đến mọi nơi. nhờ khả năng chịu hạn, sức sống bền bỉ, giúp cây dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Thậm chí, tại các vùng núi cao, cây dừa vẫn phát triển tốt.

Dừa là một loài cây trong họ Cau, thuộc loại cây lớn, thân đơn trục, có thể cao tới 30m, với các lá đơn xẻ thùy lông chim một lần, cuống và gân chính dài 4 – 6 m, các thùy với gân cấp hai có thể dài 60 – 90cm; lá kèm thường biến thành bẹ dạng lưới ôm lấy thân; các lá già khi rụng để lại vết sẹo trên thân.

Ở nước ta, cây dừa phát triển rất phong phú. Căn cứ vào hình thức bên ngoài hoặc đặc trong bên trong quả, hoặc vùng miền phát triển, người ta phân dừa thành nhiều loại: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp. Các giống dừa trồng phổ biến ở địa phương có dừa ta, dừa dâu, dừa lửa, dừa xiêm, dừa cỏ, dừa Tam Quan, dừa lùn.

Hoa của dừa là loại tạp tính (có cả hoa đực lẫn hoa cái và hoa lưỡng tính), với cả hoa đực và hoa cái trên cùng một cụm hoa. Dừa ra hoa liên tục với hoa cái tạo ra hạt. Dừa là loại quả khô đơn độc được biết đến như là quả hạch có xơ. vỏ quả ngoài thường cứng, nhẵn, nổi rõ 3 gờ, lớp vỏ quả giữa là các sợi xơ gọi là xơ dừa và bên trong nó là lớp vỏ quả trong hay gáo dừa hoặc sọ dừa, lớp vỏ quả trong hóa gỗ, khá cứng, có ba lỗ mầm có thể nhìn thấy rất rõ từ phía mặt ngoài khi bóc hết lớp vỏ ngoài và vỏ giữa (gọi là các mắt dừa). Thông qua một trong các lỗ này thì rễ mầm sẽ thò ra khi phôi nảy mầm. Bám vào thành phía trong của lớp vỏ quả trong là vỏ ngoài của hạt với nội nhũ dạng anbumin dày, là lớp cùi thịt, gọi là cùi dừa, nó có màu trắng và là phần ăn được của hạt.

Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Tất cả các phần của quả dừa và cây dừa đều có thể được sử dụng. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sông lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng.

Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mĩ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí, vừa thanh nhã vừa lạ mắt.

Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mĩ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào,… rất thích hợp với người ăn chay. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa.

Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mĩ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Các sản phẩm của dừa còn được làm thuốc chữa bệnh, đồ mĩ nghệ và các vật dụng đồ đạc hết sức tiện lợi và bền bỉ. Tại một số nước, trái dừa còn là vật phẩm dâng lên các vị thần trong những ngày lễ quan trọng. Cây dừa, quả dừa và tên gọi của nó là là biểu trưng cho sự tinh khiết, sức sống bền bỉ, có ý nghĩa biểu thị cho sự an lành.

Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa bình thường (750 – 2.000 mm hàng năm), điều này giúp dừa trở thành loại cây định cư bên các bờ biển nhiệt đới một cách tương đối dễ dàng. Dừa cần độ ẩm cao đế có thể phát triển một cách tối ưu nhất, điều này lí giải tại sao nó rất ít khi được tìm thấy trong các khu vực có độ ẩm thấp (ví dụ khu vực Địa Trung Hải), thậm chí cả khi các khu vực này có nhiệt độ đủ cao.

Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn. Khi quả còn non thì lớp vỏ rất cứng, nhưng quả dừa non hiếm khi rụng, ngoại trừ khi bị bệnh như nấm chẳng hạn hoặc do chuột, dơi,… phá hoại. Trong thời gian quả rụng tự nhiên, lớp vỏ trở thành màu nâu và xơ dừa trở nên mềm và khô hơn, như thê quả sẽ ít bị hư hại khi rụng.

Dừa được trồng nhiều ở nhiều nơi từ Bắc chí Nam, nhất là các vùng duyên hải. Cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta. Có thể thấy điều này qua các bức tranh dân gian Đông Hồ hoặc các lễ hội hái dừa ở vùng đồng bằng tư Nam Bộ. Trái dừa luôn có mặt trong mâm ngũ quả thờ cúng trong ngày Tết cổ truyền.

Từ bao đời nay, cây dừa vẫn bền bỉ, kiên trung với đất, với người, dâng cho cuộc sống biết bao hoa thơm trái ngọt. Cây dừa là biểu tượng của sức sống phi thường, lòng quả cảm, đức hi sinh mà con người Việt Nam đời đời gắn bó, trân trọng và biết ơn.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 2

Nguồn gốc của cây Dừa này không ai rõ, các nhà khoa học chưa xác định đúng chính xác. Trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Các mẫu hóa thạch tìm thấy ở New Zealand cho chúng ta nhận thấy rằng các loại thực vật nhỏ tương tự như cây dừa đã mọc ở khu vực này từ khoảng 15 triệu năm trước. Có nhiều hóa thạch có niên đại sớm hơn cũng đã được phát hiện tại Rajasthan và Maharashtra, Ấn Độ.

Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng.Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp,… Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tuỳ theo nhu cầu người dùng.

Về cấu tạo, dừa gồm có thân, lá, hoa, quả, buồng dừa và quả dừa. Thân dừa cao khỏe, có màu nâu sậm, hình trụ và có những nốt vằn trên thân.Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu,khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ 5 đến 10 trái dừa, có buồng lại có hơn 15 trái.

Dừa có nhiều công dụng đối với đời sống của con người. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào… rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kì lạ của nhiều nước có trồng dừa.

Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết thương.Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ.

Để trồng được một cây dừa phát triển nhanh, cho ra nhiều trái cần người trồng phải có sự chăm sóc cẩn thận trong giai đoạn đầu và giai đoạn cây ra hoa. Lúc này cần chăm bón đầy đủ, theo dõi tình hình cây thường xuyên. Khi mang mầm cây về, người trồng phải chọn nơi thoáng đãng, chuẩn bị đất tơi có cát trộn lẫn để tạo cho cây môi trường sống tốt nhất, thuận lợi nhất cho sự phát triển của nó. Khi thu hoạch cần chú ý với chăm bón tốt để thêm chất dinh dưỡng cho cây. Như vậy mới mong luôn có những trái dừa ngọt mát.

Cây dừa ngày nay vẫn là một trong những nét đặc trưng của các vùng quê miền Tây ven biển. Bờ biển trong xanh cùng hàng dừa sai trái là hình ảnh làm nên thương hiệu cho biển nước ta. Cây dừa sẽ mài theo con người trong cuộc sống tương lai.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 3

“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió, có phải người còn đó, là con gái của Bến Tre”. Câu hát ngân nga mang đậm hồn quê gợi nhớ về vùng đất Bến Tre, quê hương của đồng khởi. Nhắc đến Bến Tre, người ta liên tưởng đến một vùng quê thanh bình với cây lành trái ngọt. Đặc biệt, có một loài cây gắn bó quanh năm, gắn bó cả cuộc đời với người dân Bến Tre – cây dừa.

Đi khắp Bến Tre, nơi đâu ta cũng gặp bóng râm của những hàng dừa mát rượi. Hầu như nhà nào cũng trồng dừa. Cây dừa từ lâu đã trở thành biểu tượng ở Bến Tre. Nó cũng như cây chè của Bảo Lộc, Thái Nguyên, cây cà phê ở Buôn Mê Thuột hay cây cọ ở vùng quê sông Thao.

Khác với cây dừa ở các tỉnh khác được mọc ở vùng đồng bằng, dọc bờ biển hay ven những triền cát trắng, cây dừa Bến Tre mọc dài trên ba cù lao lớn, cù lao Minh, cù lao Bảo và cù lao An Hóa. Vì vậy, cây dừa Bến Tre quanh năm được phù sa của các nhánh sông Tiền, Hàm Luông, Ba Lai, Cổ Chiên bồi đắp nên lúc nào cũng xanh tươi đầy sức sống.

Cây dừa Bến Tre có rất nhiều chủng loại. Dừa ta hay còn gọi là dừa bị trái to, cơm dày, dừa xiêm trái nhỏ nước ngọt và thanh, dừa lửa có vỏ bên ngoài vàng cháy, dừa dâu trái thon nhỏ dần ở hai đầu như hình dáng quả dâu. Ngoài ra còn có một số loại khác như: Dừa Tam Quan, dừa cỏ, dừa dứa, dừa éo riêng dừa sáp chỉ mọc được ở Trà Vinh và trở thành đặc sản của vùng đất này.

Có lẽ trong tất cả các loại cây trái ở Việt Nam, cây dừa là một loại cây cống hiến cả cuộc đời mình cho con người. Không một chi tiết nào trên thân dừa lại không có chỗ dùng. Rễ dừa dùng để làm chất đốt, có nơi còn làm thuốc nhuộm. Lá dừa dùng để lợp nhà, gói bánh dừa, tàu dừa chặt ngắn lá dùng để trang trí nhà rạp, cổng hoa trong những tiệc cưới ở làng quê. Lá dừa khô được bó lại thành cây làm đuốc soi đường trong những vùng sâu thiếu thốn ánh đèn phố thị. Sống lá dùng để đan những giỏ hoa giỏ đựng trái cây trông rất thanh mảnh và trang trọng. Thân dừa thường dùng để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Sau khi bào bỏ lớp vỏ bên ngoài, người ta lấy thân làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa thanh nhã vừa lạ mắt. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường có giá trị thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn độc đáo. Có thể làm gỏi, lăn bột, xào… rất thích hợp với người ăn chay. Tuy nhiên, món này không phải lúc nào cũng có vì mỗi khi đốn một cây dừa, người ta mới lấy được củ hủ để dùng. Thậm chí ngay cả con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa) cũng là một thứ món ăn ngon. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng ở các quán ăn trong thành phố.

Tuy nhiên, thứ có giá trị nhất vẫn là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, giải độc. Ngày xưa, trong chiến trận, thiếu các phương tiện y tế, người ta còn dùng nước dừa thay thế cho dịch truyền. Dừa khô có nhiều công dụng hơn nữa. Nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu, cơm dừa rám dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Gáo dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Hiện nay, các mặt hàng làm từ cây dừa không chỉ phát triển trong nước mà còn được mở rộng ra các nước khác trên thế giới. Kẹo dừa Bến Tre được xuất khẩu nhiều nhất qua trung Quốc.

Đi về Bến Tre, chỉ cần qua khỏi phà Rạch Miễu ta sẽ đi giữa bạt ngàn màu xanh của dừa. Những buổi trưa oi bức, chỉ cần mắc võng học bài dưới gốc dừa, bên cạnh bờ ao, hoặc đưa mắt nhìn bầu trời xanh đung đưa qua kẽ lá, nghe tiếng cá nhảy, đớp mồi dưới ao chúng ta bỗng thấy cuộc đời đẹp biết bao. Cuộc sống của người dân Bến Tre gắn liền với cây dừa từ bao đời nay. Ngôi nhà của họ cũng ẩn hiện dưới bóng râm mát rượi của hàng dừa, lúc khát nước uống trái dừa ngọt lịm… Không biết đã có bao nhà thơ đã dệt nên những vần thơ đẹp về cây dừa ở Bến Tre. Cây dừa cũng xuất hiện khá nhiều trong thơ ca, trở thành biểu tượng của miền Tây sông nước:

Trong tương lai, cuộc sống ngày một hiện đại hơn. Nhưng những giá trị tinh thần vẫn không bao giờ thay đổi. Cũng như vậy, cây dừa sẽ mãi gắn bó với người dân Bến Tre như những hạt phù sa mãi mãi gắn liền với các con sông để ngày bồi đắp cho mảnh đất quê hương thêm màu mỡ.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 4

Cây dừa cứ thế tự nhiên đi vào thơ ca văn chương. Dừa xanh đã trở thành loài cây quen thuộc, gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền trong.

Nguồn gốc của cây dừa này không ai rõ, nhưng một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc từ Đông Nam Châu Á và cũng có người cho rằng chúng có nguồn gốc từ miền tây bắc Nam Mỹ. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và mưa. Vì vậy chúng đã trở thành người dân định cư không thể thiếu trên những bờ biển vùng nhiệt đới. Chúng gần như không thể sống được ở những vùng có nhiệt độ khắc nghiệt như Địa Trung Hải. Ở Việt Nam dừa xuất hiện nhiều ở các tỉnh miền Trung như Bến Tre, Cà Mau, Bình Định.

Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ mười đến mười lăm trái dừa, có buồng lại có hơn mười lăm trái.

Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng. Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp. Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tùy theo nhu cầu người dùng.

Dừa có nhiều công dụng. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông dừa thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kỳ lạ của nhiều nước có trồng dừa.

Tuy nhiên kết tinh đẹp nhất của cây dừa với tất cả những gì tinh túy lại là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết thương. Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.

Ngoài ra cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ.

(Dừa ơi)

Hay:

(Dáng đứng Bến Tre)

Trải dài khắp dải đất miền Trung của Việt Nam, những hàng dừa xanh vẫn đứng rì rào trong gió. Cây dừa không chỉ quen thuộc với cuộc sống con người Việt Nam mà còn trở thành một phần kinh tế của những con người nơi đây.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 5

Nghe tiếng gió rì rào cùng sóng biển, nghe tiếng xào xạc bên bờ. Kìa những cây dừa xếp hàng dài trên bãi cát trắng. Một loài cây đã quá quen thuộc và trở thành hình ảnh gần gũi xuất hiện trong những bức tranh miền biển

Dừa là một loại cây đã xuất hiện từ lâu. Nguồn gốc của cây dừa bắt nguồn từ đâu vẫn còn là một điều gây nên tranh cãi. Dừa là cây có thân cao khỏe màu xanh sẫm hoặc ngả nâu thẫm , ước chừng chiều cao của thân cây là 20 mét đến 25 mét, thân dừa có những nốt vằn đặc trưng, đường kính của cây khoảng 45 cm đến 50 cm. Lá cây dừa dài, to có màu xanh tươi và có nhiều tàu xòe ra, khi già lá dừa sẽ ngả vàng và có màu nâu. Hoa dừa nhỏ xíu màu trắng muốt mọc từng chùm, từng chùm nổi bật. Quả dừa mọc ra từ hoa, quả hình tròn, có màu xanh vỏ cứng và dày, bên trong có cùi dừa trắng thơm ngậy và nước dừa màu trắng đục. Nước dừa thường được lấy uống để giải khát trong mùa hè. Thường những quả dừa không đơn độc, chúng mọc thành buồng, một buồng có từ 10 đến 15 quả.

Những cây dừa thường sinh sống ở những nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển ở những vùng đất khô cắn, có đất pha cát. Trái nước với nơi sinh sống thiếu nước thì dừa có một sức sống mãnh liệt và chống chịu cao. Vì thế chúng hay được trồng ở các nơi ven biển vừa đẹp, vừa chống lại được bão gió. Dừa được phân bố ở khu vực Châu á và Thái Bình Dương trên thế giới và được trồng từ Quảng Ngãi rải rác khắp nơi đến tận Mũi Cà Mau, đặc biệt được trồng nhiều ở Bình Định và Bến Tre trên mảnh đất Việt Nam.

Dừa cũng như bao cây khác, chúng được phân ra nhiều loại: dừa xiêm,dừa bị, dừa lửa, dừa sáp, dừa nếp, dừa dâu. Tất cả loại dừa đều có công dụng khác nhau như những quả dừa xiêm dù trái nhỏ nhưng nước rất ngọt thường được bổ ra và uống. Dừa bị trái to, cùi dày thường được dùng để chế biến thực phẩm. Ngoài ra những dừa còn được dùng trong nhiều việc như kho cá, kho thịt. Cùi dừa được nạo ra làm kẹo hay mứt, hoặc xay nhuyễn, thái sợi để nấu xôi. Dầu dừa được dùng làm dầu ăn hoặc để làm đẹp cho các chị em phụ nữ, xơ dừa được dùng để làm dây thừng, còn những thân dừa cao to thường dùng để dựng cột nhà hoặc làm chiếc cầu nhỏ bắc qua kênh rạch.

Như vậy cây dừa được trồng không chỉ làm đẹp cho cuộc sống con người mà nó còn mang lại nhiều lợi ích cả về mặt kinh tế. Loài cây xanh tươi ấy gắn bó với người dân như một người bạn thân thiết từ bao đời.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 6

Nhắc đến Việt Nam là người ta nhớ ngay đến một quốc gia với muôn ngàn hoa trái. Trong rất nhiều những loài cây có giá trị từ Bắc xuống Nam dọc đất nước, có một loài cây thẳng, giản dị, một loài cây quen thuộc với người dân miền biển Việt Nam – cây dừa:

(Dừa ơi)

Dừa được biết đến là một loài cây cùng họ với cây cau. Hiện nay, nguồn gốc chính thức của dừa vẫn chưa được khẳng định chính xác. Một số giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc ở khu vực Đông nam Á, cũng có giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc Nam Mỹ.

Đặc điểm cấu tạo của cây dừa không quá phức tạp, đó là một loài cây thân trụ đứng và cao, mọc thẳng và không phân cành, phân nhánh. Lá dừa trực tiếp mọc ra từ thân chính, gồm hai phần: cuống lá và chét lá. Mỗi tàu dừa có độ dài từ 5 – 6m. Trung bình một cây dừa có khoảng dao động từ 32 – 35 lá. Cây dừa cũng có hoa. Hoa có màu trắng mọc ra từ nách lá, nở thành từng cụm, cả hoa cái và hoa đực đều nằm trên một cụm hoa. Rễ dừa thuộc kiểu rễ chùm, khi dừa mới ra rễ, rễ thường có màu trắng, nhưng trong quá trình sinh trưởng, rễ sẽ có màu nâu, rễ dừa mọc sâu và khỏe. Quả dừa có vỏ cứng, nhẵn và xanh mượt mà, bên trong là một lớp xơ màu hơi nâu, tiếp đến là lớp gáo dừa cứng chắc. Trong cùng là lớp cùi dừa trắng ngần, thơm nhẹ, có màu trắng trong khi quả dừa còn non và chuyển sang trắng đục khi dừa già. Cùi dừa bao chứa nước dừa thanh thanh, ngọt nhẹ.

Dừa là loài cây có khả năng sinh trưởng mạnh mẽ, chịu mặn tốt và phát triển thuận lợi trên đất pha cát, ưa những nơi sinh sống có nhiều ánh sáng với lượng mưa vừa phải. Bởi những đặc điểm sinh trưởng trên nên dừa được trồng nhiều ở những vùng khí hậu nhiệt đới ẩm. Ở nước ta, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện về khí hậu và đất đai thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của dừa. Ngoài ra, dừa còn được canh tác nhiều tại các tỉnh miền Trung và Bến Tre.

Người ta thường phân chia dừa thành hai loại dựa trên đặc điểm sinh cấu tạo và khả năng sinh trưởng. Đó là dừa lùn, đây là giống cây cao khoảng dưới 10m, thời gian kết trái dao động trong khoảng 3 tới 5 năm, dừa trái nhỏ, cùi mỏng. Dừa sức sống kém hơn, dễ bị sâu bệnh. Một số tiểu loại của dừa lùn phổ biến là dừa Tam Quan hay dừa Xiêm. Loại thứ hai chính là dừa cao. Giống dừa cao có chiều cao dao động trên 10m cho tới khoảng 20m, thời gian ra trái muộn hơn giống dừa lùn, trong khoảng từ 5 đến 7 năm. Dừa có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt hơn, dừa trái lớn với cùi dày. Một số loại nhỏ của giống dừa cao là dừa Sáp hay dừa Lửa.

Dừa là loại cây mang giá trị cao đối với đời sống con người. Thân dừa thường được dùng làm đồ gỗ mỹ nghệ hay vật liệu cho các công trình xây dựng: cầu. Lá dừa dùng làm mái che hay một số đồ thủ công như giỏ đan, tranh, chổi dừa khô có thể dùng làm chất đốt. Nước dừa chứa nhiều chất chống oxy hóa và vitamin, dùng làm nước giải khát. Nước cốt dừa có thể dùng làm gia vị trong các món giải nhiệt như chè hay trong một số món ăn: thịt kho. Gáo dừa có thể dùng chế tạo nhạc cụ thủ công hay đơn giản là làm gáo múc nước. Xơ dừa dùng bện dây thừng hay làm thảm, khảm thuyền, cũng có thể dùng làm phân bón. Vỏ dừa có thể được dùng làm than củi. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm hay thuốc sát trùng.

Dường như không chỉ mang giá trị kinh tế, dừa đã thực sự để lại ý nghĩa trong đời sống con người, đặc biệt là người dân Bến Tre. Loài cây ấy đã trở thành một loài cây thân thuộc, một người bạn che chở và hiền lành. Dừa từ rất lâu cũng đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương:

(Cây dừa, Trần Đăng Khoa)

Hay như:

(Bóng dừa)

Không chỉ là nguồn cảm hứng cho văn chương, dừa còn là chất liệu cho nhiều bài hát: “Hát về cây dừa quê tôi” (Hoài Thanh) và rất nhiều những bức tranh nghệ thuật.

Dừa là loài cây có sức sống tốt nên kĩ thuật chăm sóc không quá phức tạp, dừa không kén đất, tuy nhiên nên trồng dừa ở những khu vực gần kênh rạch, nên chọn những giống dừa có chiều cao khoảng 0,3 m. Ngoài ra cũng cần chú ý việc bón lót cho cây. Cần che chắn cho dừa trong ba tháng đầu tiên, quan tâm, cung cấp đủ nước cho dừa, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh.

Dừa tồn tại trong tâm thức của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân vùng Bến Tre như một loại cây lành tính và quen thuộc, thân thương như người bạn. Bởi thế, mỗi người cần có ý thức giữ gìn bảo vệ loài cây giàu giá trị ấy.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 7

Ngay từ tiểu học, chúng ta có lẽ ai cũng đã từng ngân nga mấy câu thơ của Trần Đăng Khoa:

Những dòng thơ ấy gợi nhắc về một loài cây thơm mát ngọt lành, quanh năm gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân Bến Tre – dừa.

Dừa là biểu trưng của Bến Tre, cũng giống như cây chè ở Thái Nguyên hay cây cam – Hà Giang. Đó là loài cây với cấu tạo có phần đặc biệt, cây thân đứng, cao và không có cành. Tàu lá cứ từ thân mà mọc ra, to và dài đến năm sáu mét, tỏa ra xanh mát. Hoa dừa trắng ngần, kết thành từng cụm gắn bó keo sơn, gồm cả hoa đực và hoa cái. Hoa dừa thụ phấn nhờ gió. Quả dừa cứng cáp có ba cạnh, da xanh nhẵn mượt, sọ dừa bên trong được bao bọc bởi một lớp xơ nâu nhạt. Sọ dừa bao lấy cơm dừa và nước dừa. Cơm dừa trắng đục, ăn hơi giòn và ngọt nhẹ, nước dừa trong vắt, thanh thanh dễ chịu. Dừa là loại cây rễ chùm, màu nâu, mọc sâu và khỏe.

Dừa được biết đến với sức sống bền bỉ và mạnh mẽ, nhưng thích hợp nhất để trồng dừa là đất pha cát với khí hậu nóng ẩm. Những vùng ven biển Việt Nam rất thích hợp để trồng loài cây ấy. Không chỉ vậy, bởi đặc tính chịu mặn nên dừa cũng được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Dừa xét theo những đặc điểm sinh trưởng và cấu tạo, có thể chia thành dừa lùn và dừa cao. Tuy nhiên nếu xét về công dụng, có thể chia dừa thành nhóm các giống dừa uống nước: dừa xiêm xanh (nước ngọt thanh), dừa xiêm lục (nước có hàm lượng đường cao..), dừa xiêm lửa, dừa xiêm xanh ruột hồng. Nhóm tiếp theo là giống dừa lấy dầu: dừa ta xanh ta vàng, dừa dâu xanh dâu vàng, dừa dứa hay dừa sáp.

Cây dừa có nhiều công dụng. Phần cơm dừa trắng ngần, bùi ngọt không chỉ có thể dùng để ăn trực tiếp mà còn được dùng làm nguyên liệu trong công nghiệp chế biến các sản phẩm bánh mứt: mứt dừa, kẹo dừa, hoặc dùng điều chế mỹ phẩm: son dưỡng, dầu dừa, dầu gội đầu, kem đánh răng vị dừa. Vào trưa hè nắng gắt, ngồi dưới bóng dừa mà thưởng thức hương vị ngọt thanh, mát dịu của nước dừa thì quả là thoải mái vô cùng. Xơ dừa có thể dùng để bện dây thừng, sản xuất một số đồ thủ công còn vỏ dừa có thể dùng làm nguyên liệu sản xuất phân bón. Gáo dừa thích hợp làm nhạc cụ dân tộc hay làm gáo múc nước. Từ lá dừa, người ta lợp nhà lợp cửa, tàu dừa dùng trang trí cổng hoa trong mỗi ngày vui. Lá dừa phơi khô trở thành đuốc soi đường khi thiếu sáng hay được đan thành những món đồ thủ công giản dị. Thân dừa được dùng làm cầu bắc ngang kênh, làm cột dựng nhà hay chén đũa. Dừa không chỉ có giá trị trong nước mà nhiều sản phẩm từ dừa được dùng xuất khẩu đem lại giá trị kinh tế cao.

Đến với những miền ven biển, người ta bắt gặp những hàng dừa xanh cao chắn gió. Ngày qua ngày, dừa đối với người dân miền biển, người dân Bến Tre trở thành một người canh gác, một người bạn thủ thỉ tâm giao tâm tình, một đặc trưng riêng:

Hoặc là:

Dừa cũng được dùng để tạo nên những câu đố cho đám trẻ nông thôn:

(Là cái gì?)

Kỹ thuật chăm sóc dừa không quá phức tạp. Nên chọn trồng dừa tại những vùng đất pha cát, khí hậu nhiệt đới ẩm. Trong quá trình trồng chú ý bón lót, bón thúc, phòng ngừa sâu bệnh thường xuyên để cây có thể sinh trưởng, phát triển tốt.

Cây dừa như người Việt Nam ngay thẳng, cứng cáp và vươn cao, mộc mạc và giản dị nhưng lại mang giá trị vật chất, tinh thần lớn lao. Hiểu vậy để mỗi người thêm yêu quý, trân trọng loài cây ấy.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 8

Hình ảnh cây dừa đã đi vào thơ ca nhạc họa một cách rất tự nhiên. Dừa là hình ảnh rất gần gũi và hết sức quen thuộc thân thương và trìu mến, gắn liền với tuổi thơ của mỗi chúng ta.

Hầu như loại dừa nào cũng có đặc điểm và cấu tạo như nhau. Thân dừa có hình trụ với những nốt vằn trên thân, cao khỏe, có màu nâu sậm, cao khoảng 20- 30 cm, đường kính rộng khoảng 45 cm. Đối với loại dừa dùng để làm cảnh thì thân thường là màu xanh có nhiều đốt với những tán lá xòe rộng như một cái ô khổng lồ. Lá dừa xanh, rất dài và tán lá rộng. Mỗi một cây dừa đều có nhiều tàu lá. Khi già thì lá chuyển mình thành màu vàng rồi héo dần và rụng. Phải quan sát rất tỉ mỉ thì ta mới nhìn thấy những bông hoa trắng, nhỏ li ti kết thành từng chùm trông thật thích mắt. Cây ra hoa rồi kết thành trái. Quả dừa tròn, nằm trên những tàu lá, kết thành từng chùm như đàn lợn con nằm trên cao. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ năm đến mười trái dừa, có loại trên hai trái. Quả dừa gồm hai phần là phần vỏ và phần nước ở bên trong được ngăn cách nhau bởi lớp cùi trắng. Để lấy nước của quả dừa thì đây là một công đoạn cũng rất khó cần loại bỏ lớp vỏ ngoài và lớp xơ dừa sau đó dùng đũa/que chọc vào mắt lớn nhất của quả rồi đặt ống hút vào. Người ta có thể lấy nước bằng cách chặt bỏ một phần vỏ ở phần đối diện với cuống dừa để phần vỏ cứng bên trong phơi ra vật chứa.

Người ta tìm đến với dừa có rất nhiều những công dụng khác nhau. Mỗi bộ phận của dừa hầu như đều chứa đựng những lợi ích khác nhau. Chúng ta không chỉ biết công dụng của dừa dùng để ăn mà biết đến với rất nhiều công dụng khác. Thân dừa dùng để làm cột chống, hay lá dừa khi già héo và rụng thì người ta phơi khô dùng để đun và cháy rất bén. Bên cạnh đó, thân dừa có thể dùng làm đồ mỹ nghệ hoặc làm vật liệu cho một số công trình xây dựng. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm, thuốc sát trùng để súc miệng hay chữa trị bệnh lỵ và nó còn được dùng để đánh răng. Tán lá dừa rộng, xòe to nên có thể dùng để che nắng, che mưa. Xơ dừa dùng làm dây thừng, hoa dừa dùng để trang trí. Phần có tác dụng to lớn là nằm ở quả dừa. Bên trong quả có chứa nước dừa thơm ngon, béo ngậy có thể dùng để uống giúp đẹp da hay dùng để nấu cơm, thổi xôi thêm cùi dừa nạo mỏng thì ta sẽ được đĩa xôi ngon miệng, béo ngậy, giàu chất dinh dưỡng. Người ta còn biết dùng nước dừa đun lại để làm dầu dừa dưỡng da, dưỡng tóc. Cùi dừa dùng để kho thịt, thạch dừa hay dùng để làm kem dừa khi trời nắng nắng oi bức hay dùng là mứt vào mỗi dịp tết. Khi dùng xong bên trong, họ còn dùng gáo dừa để làm vật dụng trong gia đình hay dùng để nấu ăn…

Cây dừa có rất nhiều tác dụng to lớn đối với cuộc sống của con người. Đã từ lâu nó đã trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, dám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 9

Đi vào trong những vần thơ, trong lời ru câu hát, cây dừa đã trở thành một người bạn của người dân Việt Nam. Dừa đã gắn bó với quê hương, với những bờ cát trắng và nắng gió của tổ quốc từ ngàn đời nay với màu lá xanh tươi như thế.

Không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp các châu lục, dừa là một loài cây quen thuộc. Các nghiên cứu khoa học vẫn chưa tìm ra được câu trả lời chính xác cho nơi bắt đầu của dừa nhưng qua nhiều năm phát triển, dừa giờ đây trở nên rất phổ biến, đặc biệt là ở các vùng nhiệt đới như châu Á và vùng ven Thái Bình Dương. Còn ở nước ta, dừa thường tập trung ở các tỉnh miền Trung, nổi tiếng nhất là ở Bến Tre và Bình Định.

Thân dừa rất cao, một số cây có thể cao đến ba mươi mét. Dừa còn sở hữu một thân hình khỏe khoắn với khuôn hình trụ kiên cố, có những nốt vằn trên thân vết sẹo để lại sau khi những bẹ lá già và rụng xuống đất để lại. Dừa càng già thì màu thân càng bạc đi theo năm tháng.

(Cây dừa, Trần Đăng Khoa)

Đúng như nhà thơ đã miêu tả, cây dừa có tán rộng với những lá dài, xanh mướt và nhiều tàu. Thân hình cao lớn, tán lá xanh dày nên những hôm trời nắng. Cây dừa đứng sừng sững như một chiếc ô khổng lồ, dang rộng những cánh lá xanh dài của mình để che bớt đi cái chọi lọi, gay gắt của nắng, đem lại những bóng râm mát cho người dân nghỉ ngơi. Lá dừa có hình dạng như lông chim với một gân chính dài, cứng, từ gân đâm ra những lá đơn. Mỗi lần làn gió thổi qua là những lá đơn lẻ ấy lại va chạm vào nhau, tạo nên những âm thanh xào xạc rất vui tai. Ấy cũng là thú vui của những du khách đi biển, nằm dài trên bờ cát trắng dưới bóng mát của tán dừa, lắng tai nghe bản hòa tấu của tiếng sóng vỗ rì rầm và lá rì rào như đang hát. Dừa cũng có hoa, nhưng hoa dừa lại nhỏ, có màu trắng. Vì kích thước quá nhỏ, lại nằm ở trên cao nên ít khí người ta nói đến hoa dừa. Nhưng hoa dừa lại vô cùng quan trọng. Từ những bông hoa nhỏ ấy, ta mới có những trái dưa thơm nức mùi hương. Quả dừa phát triển từ hoa, lớp vỏ bên ngoài màu xanh, cứng, nhẵn và có ba đường gờ lên rất rõ ràng. Vì thế mà quả dừa không tròn như quả nhãn, quả cam, không có hình bầu dục như xoài mà có một dạng rất riêng và đặc trưng. Dừa là quả hạch có xơ, vỏ dừa được cấu thành từ nhiều lớp xơ dừa chồng lên nhau, khá cứng nên người ta thường gọi là sọ dừa hoặc gáo dừa. Bên trong những lớp xơ đã hóa gỗ ấy là cùi dừa và nước dừa – nguyên liệu nấu ăn đã rất phổ biến. Với dừa non thì cùi thường mỏng và mềm, nên thường được hái để lấy nước. Với những quả già, lớp ngoài chuyển thành màu nâu thì cùi dừa dày, chắc nên được sử dụng để lấy cùi. Để lấy dừa non thì cần phải hái nhưng với dừa già, ta chỉ cần đợi nó rụng xuống và thu hoạch là được. Trái dừa cũng được chia ra nhiều loại như dừa xiêm với trái nhỏ, nước rất ngọt; dừa bị với trái to; dừa lửa với vỏ màu vàng hồng như ánh lửa.

Dừa không chỉ đem lại bóng mát cho người dân vào những ngày hè nóng nực mà còn được mang nhiều giá trị sử dụng khác. Gần như tất cả các bộ phận trên cây dừa đều có thể sử dụng và làm nguyên liệu cho đời sống sinh hoạt. Nước dừa ngoài là một thức uống giải khát thì có thể sử dụng làm các món ăn như cá kho, nước chấm. Cùi dừa vừa có thể ăn trực tiếp lại vừa có thể thêm vào các món như thịt kho dừa, các loại chè để tăng thêm hương vị. Là một người dân Việt Nam, không ai là không biết đến dừa Bến Tre, đặc biệt là kẹo dừa Bến Tre với sắc ngọt lịm và mùi thơm thanh thanh dễ chịu của hương dừa. Hiện nay, con người còn sáng tạo ra dầu dừa – một sản phẩm dùng để làm đẹp khá phổ biến. Với sọ dừa thì có thể làm gáo nước, rễ dừa được sử dụng như một loại thuốc, thân dừa là một cây cầu chắc chắn.

Không chỉ hiện hữu trong đời sống thường nhật, dừa còn đi vào văn học. Trong ca dao như một hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt Nam:

Lê Anh Xuân, một nhà thơ hiện đại cũng có những vần thơ về cây dừa với bài thơ như tiếng gọi thân thương “Dừa ơi”. Dừa còn đi vào trong âm nhạc, trở thành biểu tượng cho một vùng miền của tổ quốc trong “Dáng đứng Bến Tre”.

Dừa đã gắn bó với tuổi thơ của bao người dân Việt Nam, lớn lên cùng với những lũ trẻ da sạm đi vì nắng gió, che mát cho tâm hồn bao đời người dân đất Việt.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 10

Cây dừa – một loài cây khá phổ biến ở Việt Nam. Đây là loại cây có giá trị lớn về thương mại cũng như ý nghĩa tinh thần đối với nước ta.

Hiện nay, chưa có một tài liệu nghiên cứu nào ghi chép một cách chính xác về nguồn gốc của cây dừa. Nhưng không thể phủ nhận rằng, ngày này cây dừa đã được trồng ở hầu khắp mọi nơi trên thế giới.

Dừa là một loại cây có thể phát triển tốt ở điều kiện tự nhiên vùng nhiệt đới, đảo và vùng ven biển. Vì vậy, người ta thường trồng dừa ở vùng ven biển khá nhiều. Ở Việt Nam, khu vực trồng nhiều dừa nhất là Bến Tre và Bình Định, ngoài ra còn có trên các đảo lớn nhỏ.

Dừa không có quá nhiều loại. Theo đặc điểm hình thái và mục đích sử dụng, người ta chia dừa thành hai loại: dừa cao và dừa lùn. Dừa giống cao khi trưởng thành cao khoảng 12 – 20m, phát triển nhanh nhưng sau 5 – 7 năm mới cho trái. Quả to, cùi dừa dày và hàm lượng dầu dừa cao. Dễ trồng, chống chịu tốt. Còn dừa giống lùn trưởng thành thường cao dưới 10m, phát triển chậm nhưng khoảng 3 – 5 năm sau đã ra hoa và kết trái. Quả dừa nhỏ, cùi mỏng, nước nhiều chủ yếu dùng làm nước giải khát. Ngoài hai nhóm trên, còn có nhiều giống dừa được lai tạo để phù hợp khí hậu và điều kiện gieo trồng từng vùng.

Về cấu tạo, thân dừa mọc thẳng, hình trụ, cao khỏe, màu nâu sậm. Trên thâm có nhiều nốt vằn nối tiếp nhau. Lá dừa dạng xẻ thùy, tàu lá dài từ 3 – 7m và phân thành nhiều lá nhỏ. Lá mọc chủ yếu ở phần đầu ngọn nên đôi khi nhìn xa, cây dừa như một chiếc ô khổng lồ. Theo thời gian, cây phát triển cao lên, lá ở gốc già rồi rụng dần để lại mắt sẹo ở thân cây. Hoa dừa màu trắng ngà, mọc ra thành dẻ nhỏ từ nách lá. Mỗi giống giữa sẽ ra hoa ở từng thời điểm khác nhau nhưng trung bình là khoảng 30 – 40 tháng sau khi trồng. Hoa đực hoa cái sẽ tự thụ phấn hoặc thụ phấn chéo, kết thành quả. Quả dừa mọc theo chùm, chi chít nhau. Mỗi chùm phải có từ mười đến mười lăm quả. Quả dừa có năm lớp bao bọc lấy nhau. Lớp đầu tiên là lớp vỏ ngoài cùng, cứng và có màu xanh. Phần kế tiếp là lớp xơ, sau đó là lớp gáo dừa, cùi dừa và nước dừa ở trong cùng. Khi dừa còn non thì cùi dừa mỏng, màu trắng trong. Đến khi quả dừa đã phát triển thiện, cùi dừa sẽ chuyển sang màu trắng đục và dày lên lúc dừa già. Lớp xơ sẽ chuyển cứng, hóa gỗ. Rễ dừa là rễ chùm, bám chặt lấy lòng đất hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Ban đầu còn nhỏ, rễ cây màu trắng lớn lên sẽ chuyển sang màu nâu đỏ.

Dừa có rất nhiều công dụng hữu ích. Mỗi bộ phận đều có một chức năng khác nhau. Thân dùng làm cột chống hoặc chế thành đồ mỹ nghệ và vật liệu trong xây dựng, lá dừa héo khô thì dùng làm chất đốt bảo vệ môi trường. Rễ là nguyên liệu quan trọng để làm các loại thuốc nhuộm, thuốc sát trùng làm sạch miệng hay điều trị bệnh lỵ, đánh răng. Tán lá xòe rộng nên hay được trồng ở các khu nghỉ dưỡng vừa tạo vẻ đẹp thẩm mỹ vừa dùng che nắng. Trong quả dừa lại có nhiều công dụng riêng. Nước dừa có vị thơm ngọt, béo ngậy mà không ngán, vừa giải khát vừa đẹp da. Cùi dừa bào mỏng nấu kèm xôi hay kho thịt sẽ khiến món ăn thêm hấp dẫn. Đặc biệt còn có “thạch dừa” – một món đồ ăn vật vô cùng được yêu thích, nhất là đối với trẻ em. Mỗi dịp Tết, người ta còn cùi dừa nếp trắng non chế thành nhiều loại mứt màu sắc khác nhau, hương vị tự nhiên ngọt thanh rất hấp dẫn. Dầu dừa nấu từ phần cùi còn là loại mỹ phẩm cực an toàn, dùng dưỡng tóc, dưỡng môi vô cùng hiệu quả…

Như vậy, cây dừa là một loại cây hữu ích đối với con người. Dừa cũng gắn bó với cuộc sống của người dân Việt Nam từ xa xưa – trở thành một biểu tượng đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 11

Dừa là loại cây dễ trồng ở nước ta. Xu hướng dùng hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa ngày càng được ưa chuộng trên thế giới. Các sản phẩm từ dừa đang có tiềm năng xuất khẩu rất lớn, đem nhiều ngoại tệ về cho đất nước.

Dừa được trồng rải rác khắp các làng quê Nam Bộ, nhiều nhất là ở tỉnh Bến Tre, Bình Định. Cây dừa cao khỏe, có màu nâu, hình trụ và có những nốt vằn trên thân. Dừa có nhiều tàu lá, lá dừa khá dài và mỏng. Dừa có hoa màu trắng, nhỏ li ti và không có mùi quá rõ rệt. Quả được phát triển từ hoa, bên ngoài màu xanh dày, bên trong có cùi dừa và nước dừa. Dừa có rất nhiều loại khác nhau. Dừa xiêm: Loại dừa này trái thường nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp có trái vàng xanh mơn mởn. Còn dừa lửa sẽ có lá đỏ, quả vàng hồng. Dừa dâu có trái rất nhỏ, thường có màu hơi đỏ. Dừa dứa thì có trái nhỏ, màu xanh, nước ngọt, vì thơm mùi dứa nên gọi là dừa dứa. Cuối cùng là dừa sáp – loại này có cùi dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp, chỉ có ở vùng Cầu Kè (Trà Vinh).

Tiềm năng sản xuất và xuất khẩu của cây dừa rất lớn, đã hình thành cả công nghệ chế biến: ngâm tẩm chống mối, tạo dáng, đánh bóng, phủ lớp nhựa chống thấm lên bề mặt sản phẩm. Xu hướng dùng hàng thủ công mỹ nghệ từ cây dừa: Giỏ xách, dĩa, chén, bình, tách, đũa, khay, hộp. Ở các nước phương Tây ngày càng được ưa chuộng. Từ dừa có thể làm vô vàn thứ: cọng dừa tước bỏ lá, đan giỏ xách, làm chổi; gáo dừa làm than hoạt tính, làm chén, dĩa, tô, thân dừa lão làm đũa, làm cột nhà, vỏ dừa làm dây buộc. Mùa nắng nước dừa là một thứ giải khát tuyệt chiêu vừa sạch vừa bổ. Cùi dừa già làm nguyên liệu chế biến các món ăn và thức uống, nấu dầu dừa và chế biến xà phòng. Nước ta thường chế biến dừa ra nhiều sản phẩm như: bánh dừa, kẹo dừa, các loại mứt dừa và còn nhiều món ăn truyền thống dân tộc chế biến từ dừa: bánh tét, chuối nướng.

Đặc biệt, nước dừa được tạo thành sản phẩm thông qua quy trình công nghệ sinh học. Nước dừa nuôi nấm men Saccharomyces tạo ra prô-tê-in đơn bào bổ sung nguồn đạm thực vật dùng cho người. Giấm ăn hoặc các sản phẩm nước uống lên men từ nước dừa như nước giải khát đóng chai, nước dừa có ga. Nước dừa còn chế biến thành rượu có hương vị đặc trưng. Nước cốt dừa tạo sữa dừa đóng hộp, sản phẩm chiết từ cơm dừa nạo chế biến sữa đặc có đường. Gần đây các nhà khoa học còn dùng vi khuẩn tạo ra thạch dừa. Thạch dừa là đặc sản ăn vừa dai, vừa giòn, góp phần tăng cường các chất xơ giúp cơ thể bài tiết, kích thích tiêu hóa, gây cảm giác khoái khẩu.

Doanh nghiệp Trường Ngân ở Bến Tre đã thành công trong việc tìm được thị trường riêng cho sản phẩm của mình bằng hàng trăm mặt hàng gia dụng như: Giỏ xách đi chợ, giỏ đựng hoa (lẵng hoa) và đựng quà cáp, rổ rá, bình hoa, cùng nhiều chủng loại: tách, chén, dĩa, khay trà và đồ dùng trang trí nội thất khác như: voi khỉ, ngựa, gà, và các tranh treo tường.

Như vậy, dừa là một loại cây vô cùng hữu ích đối với con người. Cây dừa cũng đã trở thành một nét đẹp biểu tượng của miền Tây sông nước.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 12

Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của nhiều làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành biểu tượng của làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre.

Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thoáng những bóng dừa. Có hai loại dừa: dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao được trồng chủ yếu để lấy quả được phân ra thành các loại dừa như: dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa dứa, dừa sáp.

Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao khoảng 20 – 25m, trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng bốn mươi cm. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm.

Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Cây dừa có rất nhiều quả, quả của chúng kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ năm đến mười trái dừa, có loại trên hai mươi trái.

Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc. Nhiều người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất chắc nên người ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa. Bông dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất đẹp mắt. Đọt dừa non có thể làm gỏi, lăn bột, xào rất thích hợp với người ăn chay. Đặc biệt, có một món ăn đặc biệt mà nhiều người không biết đó là con sâu sống trên cây dừa (còn gọi là đuông dừa). Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp nên được chế biến thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng.

Trái dừa luôn được coi là phần giá trị nhất trên cây dừa. Trái dừa non được cắt ra lấy nước uống. Ngoài ra nước dừa dùng để kho cá, kho thịt, thắng nước màu. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, nấu dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông. Lá dừa có thể dùng để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà còn là chất đốt thường dùng để đun nấu phổ biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời.

Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó còn có rất nhiều công dụng với đời sống của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự kiên cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 13

Nhắc đến Bến Tre là ta không thể không nhắc đến dừa- một loại cây quen thuộc với người dân Việt ta. Đi dọc dải đất miền Tây nắng gió ta nhất định sẽ bắt gặp những rặng dừa rủ bóng xanh mát. Cây dừa không chỉ làm đẹp cho cảnh sắc làng quê mà nó còn có nhiều công dụng hữu ích cho con người.

Dừa là loại cây dễ trồng, nó có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau nhưng thích hợp nhất là đất pha cát và có khả năng chịu mặn tốt nên ở Việt Nam dừa được trồng nhiều nhất ở Đồng bằng sông Cửu Long.

Dừa được chia ra làm nhiều loại trong đó có hai loại phổ biến phải kể đến là dừa xiêm và dừa khô. Các giống dừa xiêm sẽ cho ra nước để uống còn các giống dừa khô sẽ dùng để lấy tinh dầu dừa nguyên chất. Ngoài ra còn có một số giống dừa đặc biệt khác như dừa sọc, dừa sáp, dừa dứa.

Mặc dù được chia ra nhiều giống khác biệt nhưng phần lớn cấu tạo của các cây dừa là giống nhau. Thân dừa mọc thẳng , không phân nhánh, cao tầm 20m đến 25m. Thân dừa là đặc điểm để đánh giá sự sinh trưởng của cây bởi thân dừa cao chỉ phát triển mạnh sau từ 4 đến 5 năm. Lá dừa xanh, dài, chia thành nhiều tàu rủ xuống giống như lá chuối nhưng chúng không liền một dải như chuối mà mỗi lá chia thành nhiều nhánh. Một cây dừa sẽ có khoảng 30 đến 35 tàu lá và vào thời kì trưởng thành mỗi tàu lá sẽ dài từ 5m-6m. Rễ dừa được sinh ra liên tục ở phần đáy gốc thân, không có rễ cọc. Rễ không có lông hút mà chỉ có rễ dinh dưỡng. Khi cây dừa 5 năm tuổi nó có 548 chiếc rễ và đến năm 13 tuổi chúng sẽ đạt số lượng lên tới 5200 rễ.

Hoa dừa có màu trắng và nhỏ, thuộc loại đơn tính, hoa đực và hoa cái riêng lẻ vì vậy hoa dừa được thụ phấn chủ yếu nhờ gió và côn trùng. Quả dừa được sinh ra từ hoa. Quả dừa tròn quây quanh thân dừa kết thành từng buồng. Mỗi buồng gồm từ 5 đến 10 trái. Vỏ dừa cứng, độ cứng của cùi và độ ngọt của nước dừa bên trong sẽ phụ thuộc vào độ “già” của trái dừa. Khi thu hoạch dừa người ta phải trèo lên cây dừa để vặn, xoay, cắt cho trái dừa rơi xuống đất hoặc có thể đứng dưới đất dùng sào tre để cắt trái dừa rụng xuống.

Cây dừa đã dốc hết sức lực của mình để phục vụ cho đời sống con người. Có thể nói chúng ta tận dụng được hết những bộ phận của dừa vì chúng vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị sử dụng. Thân dừa to khỏe được đục đẽo làm thành những chiếc xuồng giúp người dân miền Tây đi lại trong những ngày lũ lụt hay những ngày xuôi mái chèo qua rừng ngập mặn. Gỗ dừa còn dùng làm đồ mĩ nghệ tinh xảo. Lá dừa phơi khô có thể làm chất đốt trong gian bếp làng quê, làm mái che, đan làm giỏ đựng và ta cũng có thể dùng lá dừa sáng tạo ra chiếc chổi dừa độc đáo. Đến rễ dừa có thể tận dụng để làm thuốc nhuộm…

Và phần giá trị nhất có lẽ là quả dừa. Nước dừa có vị thanh ngọt dùng để giải khát trong những ngày nắng nóng thì không gì sánh được. Cùi dừa dùng để kho thịt, làm mứt hay kẹo dừa- những món ăn quen thuộc với người dân Việt. Xơ dừa được tách ra và được bện thành những sợi dây thừng vững chắc, nó cũng là một nguyên liệu cần thiết để sản xuất than củi. Dừa còn là một phương pháp làm đẹp hữu hiệu với chị em phụ nữ. Dầu dừa có công dụng làm đẹp da, chống nứt nẻ và dưỡng tóc óng mượt. Người xưa còn ca ngợi dầu dừa bằng câu ca dao:

Quả thật, cây dừa đã gắn bó với người dân Việt Nam từ bao đời nay. Dừa tỏa bóng mát làm dịu tâm hồn con người, dừa lại tạo giá trị kinh tế giúp con người kiếm thêm thu nhập. Cây dừa còn đi vào thơ ca, tạo nên một nét riêng giản dị đặc trưng của tâm hồn Việt. Vì thế dừa xứng đáng là một loài cây được yêu quý và trân trọng.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 14

Nguồn gốc của cây dừa từ đâu mà có thì không ai biết rõ, chỉ biết rằng từ đời này qua đời khác cây dừa đã luôn xuất hiện và trở thành một phần trong đời sống của chúng ta. Cũng có những người thì cho rằng cây dừa có cội nguồn từ khu vực Đông Nam Á của chúng ta, nhưng cũng có các giả thuyết khác về nguồn gốc của loài cây này như ở miền Tây Bắc Nam Mỹ, khu vực New Zealand, khu vực Hawaii,… Vì dừa có đặc điểm sinh sống rất đặc biệt nên cây dừa phân bố chủ yếu ở các khu vực như Châu Á, Thái Bình Dương,…Đó là các khu vực nhiều nắng nhiều gió và tần suất mưa nhiều, rất phù hợp để thân dừa phát triển. Còn trên mảnh đất chữ S của chúng ta, dừa có nhiều và trải dài từ khu vực miền Trung kéo đến tận cùng mũi Cà Mau thân yêu của Tổ Quốc.

Thân dừa cao lớn, có đường kính khoảng 40-50cm, màu sắc pha trộn giữa màu nâu sậm và xanh lá cây, có những chấm mốc xanh lốm đốm trên cây và chia rõ thành nhiều đốt. Lá dừa xanh, dài, có nhiều tàu lá, ôm trọn lấy thân dừa mà xòe ra thành chiếc tán rộng.. Hoa dừa nhỏ, có màu trắng, là loại hoa tạp tính, có cả hoa đực và hoa cái trên cùng cụm hoa. Dừa ra hoa liên tục mà nhờ đó mà chúng ta có trái dừa. Trái dừa có được nhờ quá trình thụ phấn chéo của hoa dừa, thường mọc theo buồng, mỗi buồng có khoảng từ 5 đến 10 trái. Qủa dừa có hai lớp vỏ, một lớp vỏ ngoài và một lớp vỏ trong. Lớp vỏ dày bên ngoài và phần xơ dừa ở giữa đã ôm trọn phần cùi dừa và nước dừa bên trong. Cứ như vậy, dừa đơm hoa kết trái liên tục, đem đến cho chúng ta nguồn thu hoạch vô kể.

Họ dừa có rất nhiều loại khác nhau: Dừa xiêm, dừa nếp, dừa cảnh, dừa sáp,..mỗi loại lại có những đặc điểm đặc tính khác nhau, đem lại cho người dùng sự phong phú, đa dạng khi sử dụng.

Dừa có rất nhiều công dụng đối với đời sống sinh hoạt của chúng ta. Thân dừa nhờ to lớn mà được dùng nhiều làm cột làm nhà, làm cầu, làm đũa,..Nước dừa thường được dùng để làm nước uống, hoặc để tăng thêm hương vị cho các món ăn trong nấu nướng. Xơ dừa được dùng nhiều làm dây thừng. Rễ dừa còn được dùng để làm thuốc nhuộm, làm các bài thuốc dân gian chữa bệnh. Dầu dừa được biết đến nhiều nhất trong lĩnh vực làm đẹp, có thể dùng để dưỡng da, dưỡng tóc,..và cũng có thể dùng để nấu ăn. Có rất nhiều công dụng của dừa mà chúng ta không thể liệt kê hết được, tùy vào mục đích sử dụng mà dừa đem lại cho chúng ta rất nhiều lợi ích, giá trị.

Có thể thấy, cây dừa đem lại cho chúng ta rất nhiều điều, có một ý nghĩa nhất định trong đời sống văn hóa, sinh hoạt hàng ngày của người dân Việt Nam. Nó đã trở thành một biểu tượng của hồn quê, của người dân quê hiền lành, cần cù, chất phác, một nắng hai sương với trời với đất nhưng vẫn đem lại dòng nước ngọt ngào mát trong. Đó là tinh hoa đất trời gửi tặng để chúng ta góp phần xây dựng cuộc sống của mình tốt đẹp hơn. Cây dừa đã trở thành một giá trị tinh thần to lớn, đi vào các lời ca cao, các trang thơ bài văn của chúng ta. Vì vậy mà nó cũng đóng góp một phần không nhỏ vào kho tàng nghệ thuật của dân tộc ta.

Môi dịp đi xa về chỉ cần ngồi dưới gốc dừa quê và uống một ngụm nước dừa trong mát là mọi muộn phiền dường như không còn nữa. Cây dừa đã đóng góp rất nhiều cho đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt Nam, là một người bạn hữu ích của làng quê Việt Nam.

Advertisement

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 15

Dọc theo chiều dài hình chữ S của đất nước Việt Nam xinh đẹp, ta sẽ bắt gặp rất nhiều những loài cây quen thuộc và gần gũi như: dưa hấu, mít, nhãn, xoài ở miền Bắc; sầu riêng, mãng cầu ở miền Nam … Và không thể không kể đến cây dừa. Dừa là một loại cây vô cùng quen thuộc với người dân Việt Nam. Đặc biệt, dừa còn là loài cây không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của người dân xứ Nam này. Dừa đóng một vai trò vô cùng thiết yếu và quan trọng đối với cuộc sống thường nhật của chúng ta.

Dừa là loại cây thuộc loại cây ở vùng ôn đới. Dừa có thể chịu được thời tiết ở nhiều vùng, miền và địa hình khác nhau. Dừa có thể được trồng ở chỗ có nhiều cát, gió như ở bãi biển, hoặc cũng có thể trồng ở vùng nội địa ở trong đất liền. Dừa là loại cây có thân thẳng đứng. Dừa rất cao. Chiều cao trung bình của một cây dừa rơi vào khoảng 5m – 6m. Thân dừa cao, thẳng và trơn. Thân dừa không có là mà nhẵn bóng giống như thân cây cau. Rễ dừa rất chắc, có thể ăn sâu vào trong lòng đất mẹ, hút chất dinh dưỡng để nuôi cây. Lá dứa thuộc loại lá bản to. Lá dừa có màu xanh, to và mọc thành từng khóm dày. Điều thú vị nhất ở cây dừa đó chính là quả dừa. Quả dừa tùy từng loại. Loại lấy nước thì vỏ bên ngoài có màu xanh lá cây đậm, cùi bên trong mỏng và mọng nước. Loại lấy cùi thì vỏ bên ngoài có màu nâu, thớ vỏ hơi cứng và cùi dày, ít nước và nước của loài dừa này thường là chua, không ngọt như loại dừa lấy nước.

Dừa là loại cây có rất nhiều công dụng. Lá dừa có thể dùng để gói xôi, vừa giữ được mùi thơm của xôi hay giúp cho xôi có thêm hương thơm của cỏ cây tự nhiên vừa có thể bảo vệ môi trường, hạn chế được việc sử dụng những bao nilon khó có thể phân hủy. Quả dừa có thể dùng để lấy nước. Nước dừa là một sản phẩm được mọi người ưa chuộng và vô cùng thích sử dụng bởi nước dừa không quá ngọt và cũng không quá nhiều dinh dưỡng, nó thanh, nhẹ và mát. Rất thích hợp uống vào những thời tiết oi nóng. Dừa còn được dùng để chiết xuất thành các loại chăm sóc da rất tốt cho chị em phụ nữ. Đặc biệt là cùi dừa có rất nhiều công dụng. Nó có thẻ dùng để làm mứt dừa. Mứt dừa là món ăn không thể thiếu của người Việt Nam trong lễ hội, và nhất là trong những dịp Tết đến xuân về. Cùi dừa còn có thể kho với thịt ba chỉ rất ngon và ngậy. Đây là một món ăn phổ biến trong bữa cơm của mỗi gia đình Việt Nam.

Như vậy, cây dừa có rất nhiều những công dụng có ích trong cuộc sống của chúng ta. Nó không chỉ tô điểm cho vẻ đẹp của đất nước quê hương mình mà còn có những công dụng vô cùng hữu ích trong cuộc sống của chúng ta.

Thuyết minh về cây dừa – Mẫu 16

Có lẽ hình ảnh cây dừa đã trở thành một hình ảnh quen thuộc đối với tất cả mọi người. Ai mà chẳng có lần được thưởng thức vị nước dừa thơm ngon cơ chứ. Ở Việt Nam, dừa thường có nhiều ở những vùng ven biển và đặc biệt là dừa thường tập trung từ Quãng Ngãi đến Cà Mau nhưng nhiều nhất là ở Bình Định và Bến Tre.

Có rất nhiều ý kiến tranh cãi về việc cây dừa xuất hiện lần đầu ở đâu trong đó một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc ở khu vực đông nam châu Á trong khi những người khác cho rằng nó có nguồn gốc ở miền tây bắc Nam Mỹ. Dù có ở đâu thì đây cũng là loại quả vô cùng được ưa chuộng đối với mọi người. Dừa thường sống ở nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển trên đất pha cát và có khả năng chống chịu tốt. Đặc biệt những quả dừa sẽ có thể phát triển một cách tối ưu nếu nơi đó có độ ẩm cao( khoảng 70-80%). Có lẽ vì vậy mà người ta thường trồng nhiều dừa ở ven biển để nó có thể phát triển một cách tốt nhất. Dừa được chia làm nhiều loại nào dừa xiêm( loại dừa này nhỏ hơn so với trái dừa bình thường nhưng nước lại rất ngọt), dừa nếp( trái vàng xanh mơn mởn), dừa lửa( lá đỏ quả vàng hơi hồng)… dù là loại dừa nào thì cũng đều có vẻ đẹp riêng.

Cây dừa cao lắm, có thể cao bằng cả một tòa nhà cao tầng ở nơi đây vươn ra đón nắng đón gió. Rễ cây dừa không to mà tỏa ra thàng nhiều sợi rễ nhỏ, cắm sâu vào lòng đất cần cù lấy chất dinh dưỡng nuôi cây. Thân dừa không to, vừa đủ bằng một vòng tay của em nhưng cao lắm. Thân cây sần sùi màu nâu và ở trên thân thường có những vòng tròn nhỏ đều tăm tắp và cách đều từ gốc lên tới ngọn cây. Từ thân cây sẽ tỏa ra những tàu lá to và dài. Từ bên dưới nhìn lên, những tàu lá xanh như vươn dài ra tận trời xanh như những cánh tay bảo vệ cây khỏi gió bão nơi biển cả. Ở mỗi tàu lá đều có những chiếc lá nhỏ và dài xếp thẳng tắp dọc theo tàu lá và nhỏ dần về phía ngọn. Đặc biệt ẩn bên dưới những tàu lá ấy là từng chùm quả dừa màu xanh to và tròn trông rất thích mắt. Qủa dừa to và nặng lắm nhìn từ xa trông như một quả bóng. Quả có vỏ cứng và dày màu xanh nhạt và ẩn bên trong lớp vỏ ấy là một lớp cùi trắng trông rất hấp dẫn bao bọc xung quang như bảo vệ phần nước dừa bên trong. Nước dừa không ngọt quá như những loại cây ăn quả khác mà nó chỉ ngọt thanh thanh, khi uống đem lại cảm giác rất sảng khoái và dễ chịu.

Cây dừa đem lại rất nhiều công dụng cho mọi người. Như đã nói ở trên, nước dừa được coi là một loại nước giải khát vô cùng được ưa thích trong những ngày hè nóng nực. Ngoài ra nước dừa còn được dùng để làm nước chấm, kho cá kho thịt… Cùi dừa có thể được dùng để làm mứt, làm nước cốt dừa hay dầu dừa rất tốt và giàu chất dinh dưỡng. Bên cạnh đó phần vỏ cứng của vỏ dừa còn có thể được sử dụng để làm than hoạt tính hay chất đốt. Không chỉ mỗi trái dừa có giá trị mà những bộ phận khác của cây cũng được dùng trong rất nhiều việc hữu ích như thân dừa chắc nên có thể làm cột, làm cầu ; lá dừa to có thể dùng để lợp mái nhà….

Như vậy có thể thấy cây dừa không chỉ góp phần làm cho cảnh quan đất nước thêm tươi đẹp mà còn được dùng để sử dụng trong rất nhiều việc. Cây dừa hữu ích như vậy nên mỗi người chúng ta cũng cần phải chăm sóc, bảo vệ nó cẩn thận để cây có thể phát triển một cách tốt nhất.

Thuyết minh về cây dừa Nam bộ

Nhà thơ Lê Anh Xuân, người con đất Nam bộ đã từng dành cho cây dừa quê hương biết bao tình cảm tha thiết:

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Cây dừa là cây vốn được trồng phổ biến ở các khu vực miền biển nước ta, tập trung nhiều nhất ở Nam bộ, tạo nên những vùng du lịch nổi tiếng. Cây dừa mang lại nhiều lợi ích và ăn sâu trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam từ bao đời nay.

Dừa là loài cây thuộc họ Cau, là họ duy nhất trong chi Cocos và có thân gỗ lớn hình trụ. Dừa có nguồn gốc từ đảo Andaman, vịnh Bengal, Ấn Độ và các quần đảo thuộc khu vực Đông Nam châu Á. Từ các quần đảo này, thông qua các dòng chảy của đại dương hoặc các các nhà thám hiểm, cây dừa đi khắp thế giới. Từ đó, cây dừa trở thành một loài cây trồng ưa thích và phổ biến ở nhiều quốc gia. Ngày nay, dừa được trồng nhiều ở các vùng nhiệt đới, đặc biệt là đảo hay các vùng ven biển.

Cây dừa xuất hiện ở Việt Nam từ trước công nguyên. Từ thế giới hoang dã, cây dừa được trồng phổ biến ở các vùng đồng bằng ven biển. Bến tre và Bình Định là những khu vực trồng nhiều dừa nhất nước ta. Trên các đảo, chúng ta ta cũng trồng rất nhiều dừa tạo nên những cảnh quan rất đẹp. Những bãi biển xanh mát dừa cao thu hút được nhiều du khách đến chiêm ngưỡng và nghỉ ngơi.

Dựa vào đặc điểm hình thái và mục đích sử dụng có thể phân loại dừa thành 2 nhóm giống chính. Nhóm giống dừa cao và nhóm giống dừa lùn. Ngoài ra, để có được các giống dừa mới có năng suất và chất lượng cao, cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Người ta còn lai tạo ra một nhóm giống dừa mới phù hợp với khí hậu và đất trồng của từng khu vực gọi là dừa lai.

Dừa là loại cây thân thẳng, không phân nhánh. Thân dừa là thân đơn trục một thân chính, không có cành nhánh. Thân dừa mọc thẳng, không phân nhánh, chiều cao trung bình từ 15 – 20m. Đôi khi có thể cao tới 30m.

Cây dừa trưởng thành thường mang 25-40 tàu lá. Mỗi tàu lá có chiều dài trung bình 4-6m, được chia làm 2 phần cuống lá và lá. Phần cuống là phần không có lá chét, lồi ở mặt dưới, bằng hoặc hơi lõm ở mặt trên. Phía đáy phình rộng và dẹt hơn ôm chắc lấy thân cây. Mỗi tàu lá có khoảng 90-200 lá chét mỗi bên. Phần lá chét ở 2 bên không đối xứng nhau hoàn toàn. Khi tàu lá rụng sẽ để lại sẹo trên thân cây trơn nhẵn.

Rễ dừa là loại rễ bất định, sinh trưởng liên tục ở phần đáy gốc thân. Dừa không có rễ cọc. Rễ dừa rất mạnh khỏe và dẻo dai, có thể mọc ra liên tục trong suốt cuộc đời cây dừa. Rễ hút chất dinh dưỡng nuôi cây và giữ cho thân dừa đứng vững trong gió.

Hoa dừa là loài tạp tính hình thành dưới dạng chùm gọi là phát hoa. Phải mất 30-40 tháng kể từ khi hoa bắt đầu hình thành đến khi nở hoa dừa mới bung ra hết. Thường thì mỗi nách lá cho 1 phát hoa. Mỗi phát hoa có rất nhiều hoa. Quả dừa hình thành bám chặt trên phát hoa này.

Quả dừa thuộc loại quả hạch, nhân cứng. Quả gồm có ba phần là ngoại quả bì, trung quả bì và nội quả bì bao gồm gáo, nước và cơm dừa. Quả dừa cũng là cơ quan sinh sản của cây. Mầm non mọc từ bên trong và tự nảy mầm trên mặt đất. Gặp điều kiện ẩm ướt, rễ dừa đâm sâu vào đất tạo thành cây con mới.

Cây dừa thường sống ở vùng nhiều nước thuộc các vùng trũng thấp. Khi trồng, gốc cách gốc khoảng từ 2 – 3 mét. Dừa phát triểm nhanh vào mùa mưa. Cây trồng từ 2 đến 3 năm là trưởng thành và cho quả. Dừa có thể phát triển tốt và cho quả từ 50-60 năm. Càng già, dừa càng ít quả và hay sâu bệnh.

Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt. Dừa ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và lượng mưa trung bình. Dừa cần độ ẩm cao (70–80%+) để có thể phát triển một cách tối ưu. Do đó, Dừa chỉ có thể trồng từ tới cuối tháng 11 hoặc đầu tháng 12. Nó rất khó trồng và phát triển trong các khu vực khô cằn.

Người miền Nam thường hay trồng dừa quanh nhà. Nhiều nơi trồng ven bờ ao hoặc trong thành đám lớn để khai thác quả. Hình ảnh cây dừa trước ngõ vu vi trong gió đã đi sâu vào trong tiềm thức con người. Từ lâu, hình ảnh cây dừa trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân Nam bộ.

Cây dừa có sức sống mạnh mẽ chịu được khô hạn. Khi trồng còn bón thêm cho dừa các loại phân như lân, phot-phat, đạm… Một vài nơi người ta còn bón thêm muối và vôi để dừa tăng khả năng chống bệnh và cho quả ngọt.

Cần bảo vệ cây dừa trước sự phá hoại của bọ dừa, kiến vương, đuông, sâu nái, chuột,… Cần tránh một số bệnh thường gặp ở dừa như: bệnh lá đốm, bệnh thối đọt, nứt và rụng trái để cây dừa phát triển và cho quả tốt.

Mỗi cây dừa trưởng thành cho khoảng 80 – 100 quả mỗi năm. Người ta thường thu hoạch khi quả xanh trưởng thành để lấy nước và cơm dừa. Quả già có màu nâu, vỏ cứng, thường lấy cơm dừa làm tinh dầu hoặc các loại bánh kẹo. Kẹo dừa, dầu dừa là đặc sản nổi tiếng của vùng đất Bến Tre.

Dừa là loại cây cho quả nhiều dầu nhất nước ta. Từ các bộ phận của cây dừa có thể cho ta rất nhiều loại sản phẩm chế biến phong phú và đa dạng:

Thân dừa được cắt xẻ lấy gỗ. Ở miền biển, gỗ dừa là vật liệu chính để xây nhà, làm cầu, che chắn đồ dùng. Gỗ dừa rất bền chắc nếu được bảo quản ở điều kiện khô ráo. Vỏ dừa lấy sợi; làm thuốc trị bệnh mẩn ngứa, nấm da. Người ta tước các sợi từ vỏ thân cây dừa hoặc quả dừa bện thành dây thường rất bền chắc.

Lá dừa làm vật lợp mái nhà, vật liệu che phủ, hoặc làm vở lá gói bánh, làm các đồ chơi, đồ thủ công mỹ nghệ. Lá dừa còn là chất liệu đốt, làm phân bón,… Lá dừa bén lửa rất mạnh. Ở các vùng quê, lá dừa được sử dụng để đun nấu.

Xơ dừa làm vật liệu trồng hoa lan và một số loài cây cảnh; đốt lấy nhiệt, làm phân bón cây. Gáo dừa thường đốt lấy than; làm đồ mỹ nghệ, đồ gia dụng. Với tính chất cứng, không hút ẩm, gáo dừa ngày càng phát huy vai trò lớn trong việc tạo ra những vật dụng an toàn, thân thiện với môi trường.

Nước dừa là một loại nước uống giải khát giàu dinh dưỡng. Ngày nay, ngoài việc uống tươi, nước dừa còn được đóng lon, hộp, trở thành loại nước uống phổ biến trên thế giới. Ngoài ra nước dừa còn dùng để làm rượu, thuốc chữa bệnh và dinh dưỡng rất hiệu quả trong y học cổ truyền.

Cơm dừa là sản phẩm chính của cây dừa. Cơm dừa dùng trong nấu ăn, là bài thuốc tốt cho những người suy nhược, ăn uống kém, giúp nhuận tràng. Cơm dừa là nguyên liệu làm nhiều loại bánh kẹo. Cơm dừa còn dùng để ép lấy dầu. Hủ dừa là loại thực phẩm thường được sử dụng trong các bữa ăn gia đình.

Cây dừa giúp chắn gió, cát ven biển, bảo vệ đồng ruộng nội địa. Đây là cây tiên phong ở vùng phèn mặn. Hàng dừa cao vút bao năm che mưa, chắn gió, chắn cát bảo vệ làng mạc, ruộng vườn, giữ gìn môi trường sống của con người.

Trong ngày lễ, tết, cưới hỏi người Nam bộ dùng dừa làm đồ trưng bày trong mâm ngũ quả: “cầu, dừa, đủ, xài (xoài), xung”. Dừa là một trong năm thành tố tạo nên mơ ước được phồn thịnh của con người nơi vùng đất châu thổ Cửu Long. Ngoài ra, trong ba ngày tết, nhà nào cũng có mứt dừa với các màu sắc xanh, trắng, đỏ, vàng trông rất bắt mắt. Mứt dừa làm cho không khí ngày tết thêm rộn ràng.

Thật không thể nào quên những chiếc bánh lá dừa, bánh nhân dừa, chè nước cốt dừa ta vẫn ăn thường ngày. Thức ăn chế biến từ quả dừa đã tạo nên một nét khác biệt đậm đà trong đời sống ẩm thực Việt Nam.

Dừa đi vào âm nhạc, hội họa, thi ca và các hình thức nghệ thuật khác trong đời sống người dân Nam bộ.

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Mỗi buổi trưa hè, nằm dưới tán lá dừa xanh, nghe gió thổi vi vu trên tầng cao thật thú vị biết bao. Nhìn ánh sáng lấp lóa như muôn vạn vì sao lung linh giữa bầu trời trong vốn là niềm vui thú của biết bao con người xứ dừa. Cây dừa hiền lành và cần mẫn như tính cách của người nông dân quanh năm gắn bó với ruộng đồng, với thiên nhiên thơ mộng và bao dung.

Dừa cũng cùng con người trải qua biết bao thử thách của mẹ thiên nhiên mỗi khi người nổi giận kinh hoàng. Hình ảnh hàng dừa vươn mình chống bão tố, chống bom đạn của kẻ thù như người chiến sĩ quyết hi sinh bảo vệ xóm làng đã trở thành biểu tượng của lòng kiên trung, bất khuất:

(Dừa ơi – Lê Anh Xuân)

Cây dừa Nam bộ in dấu đậm nét trong đời sống văn hóa của nhân dân miền Nam. Đặc biệt, cây dừa có giá trị văn hóa rất tiêu biểu cho vùng đất chín rồng đang vươn mình trỗi dậy. Cây dừa hứa hẹn bay xa, bay cao, để từ đó, góp phần đưa kinh tế – xã hội của vùng đất mới này ngày càng phát triển.

Bài Viết Số 1 Lớp 12 Đề 3: Nghị Luận Học Để Biết, Học Để Làm, Học Để Chung Sống, Học Để Khẳng Định Mình Dàn Ý &Amp; 5 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 12 Đề 3

Nghị luận Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình đem đến cho các bạn 4 bài văn mẫu siêu hay đạt điểm cao nhất của các bạn lớp 12. Qua đó các bạn có thêm nhiều gợi ý tham khảo, nắm vững kiến thức cơ bản, củng cố kĩ năng viết văn, mở rộng vốn từ để biết cách viết bài văn số 1 cho riêng mình.

1. Mở bài:

– Con người ai cũng trải qua việc học, nhưng không phải ai cũng có ý thức xác định mục đích và mục đích đúng đắn của việc học.

– Mỗi thời đại, con người có mục đích học tập không giống nhau. Tổ chức UNESCO đã đề xướng nhằm xác định mục đích học tập có tính toàn cầu.

2. Thân bài:

a. Giải thích và làm rõ từng nội dung trong đề xướng của UNESCO:

– Học để biết:

Học là quá trình tiếp thu tri thức từ sách vở, trường học, từ thực tế cuộc sống “trường đời”.

“Học để biết” là mục đích đầu tiên của việc học. “Biết” là tiếp thu, mở mang, có thêm kiến thức về đời sống, tự nhiên, xã hội và con người. Con người từ chỗ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều, biết sơ sài đến biết sâu sắc, biết một lĩnh vực đến hiểu biết về nhiều lĩnh vực đời sống…

Nhờ học, con người có những hiểu biết phong phú, tự làm giàu kho tri thức khoa học của mình, tạo được vốn sống sâu sắc…

Quan trọng hơn, qua những tri thức đó, con người có khả năng hiểu biết về bản chất con người và tự nhận thức bản thân, “biết người”, “biết mình”, biết giao tiếp, ứng xử với nhau sao cho “Đắc nhân tâm”…

– Học để làm:

“Học để làm” là mục đích tiếp theo của việc học. “Làm” là vận dụng kiến thức có được vào thực tế cuộc sống. Đây là mục đích thiết thực nhất của việc học – “Học đi đôi với hành”.

Làm để tạo ra những giá trị vật chất, tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của bản thân và góp phần tạo nên của cải cho xã hội

Ví dụ: Người nông dân, kĩ sư, bác sĩ… đều mang kiến thức đã học được áp dụng vào thực tế, để tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội.

Học mà không làm thì kiến thức có được không có ích, không bền vững, không được sàng lọc.

– Học để chung sống:

Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc học. “Chung sống” là khả năng hòa nhập xã hội, kĩ năng giao tiếp, ứng xử… để tự thích nghi với mọi môi trường sống, các quan hệ phức tạp của con người trong quá trình sống để không bị tụt hậu, lạc lõng. Đây là hệ quả tất yếu của việc “biết”, “làm”.

Bởi lẽ, “con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”. Bản chất, giá trị, nhân cách của con người được hình thành, nuôi dưỡng, khẳng định, thử thách trong các mối quan hệ đó.

– Học để tự khẳng định mình:

Là mục đích sau cùng của việc học. “Tự khẳng định mình” là tạo được vị trí, chỗ đứng vững vàng trong xã hội, thể hiện sự tồn tại có ý nghĩa của cá nhân mình trong cuộc đời. Mỗi con người chỉ có thể khẳng định mình khi có hiểu biết, có năng lực hành động, có khả năng chung sống.

Từ việc học, mỗi người có cơ hội khẳng định tri thức mình tích lũy được; khẳng định khả năng lao động, sáng tạo; khẳng định nhân cách, phẩm chất…

b. Bàn bạc, mở rộng vấn đề:

– Nội dung đề xướng về mục đích học tập của UNESCO thật sự đúng đắn, đầy đủ, toàn diện.

– Mục đích học tập này thực sự đáp ứng, hoàn toàn phù hợp với yêu cầu giáo dục, đào tạo con người trong thời đại ngày nay. Mục đích này không chỉ dành riêng cho học sinh, sinh viên mà còn dành cho tất cả những ai là người học. Vì thế, có thể coi đây là mục đích học tập chung, có tính chất toàn cầu.

– Từ mục đích học tập đúng đắn này, mỗi người học thấy rõ những sai lầm nhận thức về việc học: học không có mục đích; coi việc học là thực hiện nghĩa vụ với người khác; học vì bằng cấp; học vì thành tích; học mà không có khả năng làm, không biết chung sống, không thể khẳng định mình. Ví dụ: Học sinh không biết viết đơn xin nghỉ học đúng quy cách; kĩ sư giỏi, được đào tạo bài bản mà không chế tạo được những công cụ trong sản xuất nông nghiệp; có học vị, bằng cấp nhưng cách ứng xử thì vụng về, lối sống lại thiếu văn hóa…

c. Bài học về nhận thức và hành động của bản thân:

– Mục đích học tập giúp con người, xã hội điều chỉnh được nhận thức về thời gian học: không chỉ học ở một giai đoạn mà phải học suốt đời; không chỉ học trong nhà trường mà cần phải học ngoài xã hội; người dạy không chỉ truyền đạt kiến thức mà còn dạy “làm người”…

– Mục đích học tập này giúp người học:

Xác định rõ mục đích, động cơ và thái độ học tập.

Ra sức học tập và rèn luyện, trang bị kiến thức về mọi mặt để có trình độ chuyên môn vững vàng, có khả năng hội nhập quốc tế.

Học phải đi đôi với hành để khẳng định mình. Sống có ích cho cuộc đời và cho gia đình, xã hội.

3. Kết bài:

– Khẳng định vai trò của học tập: học để không bị ngu dốt, nghèo nàn và lạc hậu. Học để khẳng định sự thành đạt của cá nhân và sự tiến bộ của nhân loại.

– Liên hệ bản thân: Đã xác định được mục đích đúng đắn cho việc học của mình chưa? Cần phải làm gì để đạt được mục tiêu ấy?

Nước ta là nước ngàn năm văn hiến, luôn luôn đề cao vai trò của việc học. Song mỗi người lại có những phương pháp, mục đích học tập khác nhau. Nói về cách xác định đúng đắn mục đích của việc học, UNESCO đã từng đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Lời nhận định trên của UNESCO đã một lần nữa khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục đích học tập đúng đắn đối với mỗi cá nhân.

Học là quá trình con người lĩnh hội kiến thức về khoa học kĩ thuật, văn hóa xã hội và nhất là học để con người học cách chung sống cùng cộng đồng. Quá trình học của con người diễn ra một cách liên tục, người ta học ở mọi lúc và mọi nơi. Như nhà cách mạng vĩ đại nước Nga đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi” (Lê-nin). “Học để biết” là quá trình con người tiếp nhận tri thức để mở mang hiểu biết cá nhân. “Học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là cách con người ta áp dụng những lí thuyết vào trong thực tế lao động và sản xuất, học cách đối nhân, xử thế trong cuộc sống thường nhật. Và từ việc học để biết, học để làm, học để chung sống sẽ tạo cho mỗi cá nhân một vị thế, một chỗ đứng riêng trong xã hội để tự khẳng định mình.

UNESCO đã khẳng định vai trò to lớn của việc xác định mục tiêu học tập đúng đắn của mỗi cá nhân. Chỉ khi có được mục tiêu học tập đúng đắn con người mới xác định rõ phương pháp học tập để mang lại kết quả tốt nhất. Điều đó đặc biệt quan trọng đối với những thế hệ thanh, thiếu niên, những chủ nhân tương lai của đất nước. Hơn thế nữa điều này còn phù hợp với đất nước ta khi đang trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.

Mục đích đầu tiên của việc học mà UNESCO đề cập tới là “học để biết”. Mục tiêu này được đặt lên hàng đầu là bởi: Kho tàng trí tuệ của nhân loại là vô tận mà con người chỉ như một hạt cát giữa sa mạc hay một giọt nước giữa đại dương mênh mông. Con người phải không ngừng học tập để tiếp nhận và bắt kịp với những tri thức đang ngày càng mở rộng của nhân loại. Học mở mang trí tuệ, hiểu biết cho ta, dẫn dắt ta vào những chỗ sâu sắc, bí ẩn của thế giới xung quanh, từ sông ngòi, rừng núi cho tới vũ trụ bao la. Học đưa ta vào những thế giới cực lớn như thiên hà, hoặc cực nhỏ, như thế giới của các hạt vật chất. Học đưa ta vượt thời gian, tìm về với những biến cố lịch sử xa xưa hoặc chắp cánh cho ta tới ngày mai, và để hiểu sâu sắc hơn về thực tại. Quan trọng hơn cả việc học để biết sẽ tạo nền tảng cho việc thực hiện và áp dụng vào công việc sau này. Vậy nên con người phải không ngừng lĩnh hội những tri thức của nhân loại để làm giàu thêm hiểu biết cá nhân.

Chỉ khi con người đã lĩnh hội tri thức và vận dụng nó một cách thuần thục vào đời sống thì việc học tập đó mới thực sự là có ý nghĩa: “học để làm”. Thực hành bằng chính sức lực của mình sẽ giúp con người kiểm tra được mức độ hiểu biết của bản thân. Không phải bất kì ai học giỏi là sẽ làm tốt. Khi các đề án, dự thảo của những giáo sư, tiến sĩ không được áp dụng vào thực tế thì đó chỉ là những lí thuyết suông. Những thứ ấy trở nên vô giá trị khi chỉ được lưu giữ trong bảo tàng, trong thư viện như một kỉ niệm lịch sử. Bởi việc học và hành phải đi liền với nhau mới mang lại kết quả cao. “Học để biết” sẽ giúp cho “học để làm” được thuần thục và tránh được những sai sót không đáng có trong việc áp dụng lí thuyết vào thực tế.

Mặc dù không được học tập một cách bài bản như những giáo sư hay tiến sĩ, song những người nông dân lại biết vận dụng một cách sáng tạo những gì họ chứng kiến và họ hiểu rõ mục đích , cái mà họ thực sự cần trong đời sống sản xuất. Họ học trên chính ruộng đồng, trên những luống cày, họ học bằng chính mồ hôi và nước mắt. Họ đúc rút từ quá trình lao động và tự đi tìm kiếm những giải pháp giúp cho cuộc sống đỡ vất vả, khó khăn, để sản lượng nông nghiệp đạt hiệu quả cao mà lại ít tốn công sức hơn. Nhà khoa học Lương Định Của đã tạo ra những giống lúa mới có năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt cho những người nông dân. Không những vậy ông còn là người biết áp dụng những gì đã nghiên cứu vào đời sống thực tại. Trong một lần đi trên đường, ông nhìn thấy bà con cấy dưới ruộng ông đã khuyên mọi người cấy ngửa tay cho nhanh và cây lúa sẽ nhanh bén rễ. Mọi người tưởng rằng đó chỉ là những lí thuyết suông nên đã mời ông xuống cấy thi. Nhà khoa học nhận lời, bước xuống ô tô rồi ông xuống ruộng và cấy. Ông cấy thi với một chị cấy nhanh nhất ở đó. Nhưng chỉ sau một thời gian ngắn ông đã bỏ xa chị kia, ông không chỉ cấy rất nhanh mà còn rất thẳng. Từ đó bà con đều khâm phục ông bởi ông không chỉ là nhà khoa học giỏi mà hơn thế nữa ông còn biết áp dụng những điều đó vào trong thực tế một cách thành thạo. Ông thực sự đã trở thành tấm gương cho việc “học để làm” để người khác học tập.

Khi đã học để biết và áp dụng được những điều đó vào trong thực tế cũng là lúc con người phải học cách chung sống với cộng đồng. “Học để chung sống” là cách con người điều hòa các mối quan hệ trong cuộc sống hằng ngày và điều đó chỉ thực hiện được khi mỗi cá nhân biết lắng nghe và thấu hiểu cùng mọi người. “Học để chung sống” thực sự thành công khi bạn có khả năng làm cho người khác hiểu, tôn trọng mình. Chắc hẳn bạn đọc vẫn chưa quên hình ảnh của nhân vật Giăng Van-giăng trong tiểu thuyết “Những người cùng khổ” với câu nói nổi tiếng: “Trên đời, chỉ có một điều ấy thôi, đó là yêu thương nhau”. Chính tình yêu thương, sự hi sinh cao cả của Giăng Van-giăng dành cho Cô-dét và Ma-ri-úyt đã khiến cho Gia-ve – một gã thanh tra cảnh sát độc đoán, lần đầu tiên cảm thấy mất phương hướng, nhảy xuống sông Xen tự tử. Không chỉ vậy, tình cảm cao quý ấy của ông đã giúp cho Phăng-tin, một người mẹ nghèo thất lạc con, được ra đi trong sự yên bình và thanh thản. Bằng ánh sáng của tình yêu thương Giăng Van-giăng đã đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai. Giăng Van-giăng là hiện thân cao đẹp nhất của lẽ sống tình thương, của sự chung sống hết mình vì cộng đồng, vì người khác. Chính vì vậy, tác giả Huy-gô đã tạo cho tiểu thuyết sức sống mạnh mẽ vượt qua mọi giới hạn về không gian và thời gian.

Quá trình học tập diễn ra một cách liên tục và lâu dài vì thế đòi hỏi người học phải không ngừng tích lũy kiến thức, làm mới bản thân, và đặc biệt là không bao giờ được bằng lòng với những gì mà mình đã biết. “Học để tự khẳng định mình” là cách con người khẳng định bản thân với chính mình, mới có thể khẳng định mình với mọi người. Khi con người tự khẳng định được mình thì mới được mọi người công nhận, ngưỡng mộ, tôn trọng nhân cách của mình. Năm 2010, giáo sư Ngô Bảo Châu đã mang về vinh quang cho đất nước Việt Nam khi nhận giải thưởng Field về toán học tại Ấn Độ. Đây là giải thưởng cao quý nhất dành cho toán học thế giới. Trước khi giành được giải thưởng này, giáo sư Ngô Bảo Châu cũng là một trong những nhà toán học hàng đầu thế giới. Song để khẳng định chính mình với bản thân, với cộng đồng giáo sư vẫn không ngừng học tập và để mang về vinh quang cho Tổ quốc như ngày hôm nay. Mục đích là ngọn đèn chỉ đường cho những việc làm, hành động cho con người. Chỉ khi có mục đích rõ ràng mọi người mới có thể tránh được những thiếu sót, sai lầm, điều chỉnh hành vi của thân. Việc học cũng như vậy, khi con người xác định được mục tiêu học tập đúng đắn là bước đầu cho sự thành công của con đường học vấn.

Ở trên đời có nhiều người đi học, nhưng ít người biết học cho thành tài là do họ thiếu hoặc vẫn chưa xác định được mục đích học tập đúng đắn. Do không xác định được mục tiêu học tập nên những người này dễ cảm thấy mệt mỏi, chán ngán với việc học, với họ học chỉ mang tính chất chống đối. Tác hại của việc không xác định được mục tiêu học tập đã dẫn tới những hệ lụy đáng tiếc đang diễn ra trong xã hội hiện nay. Đó là hành vi quay cóp, sử dụng tài liệu trong thi cử hay cách sống buông thả của một bộ phận học sinh, sinh viên gây ra những tệ nạn xã hội hiện nay. Đây thực sự là tình trạng đáng báo động, khi đất nước ta đang trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa rất cần đến những thanh niên tri thức, giàu hiểu biết về khoa học-kĩ thuật. Họ đang không làm đúng với bổn phận của công dân. Qua đó, ta lại càng thấy được vai trò to lớn của việc xác định mục đích học tập đúng đắn mà UNESCO đã đề xướng.

Là một học sinh còn đang ngồi trên ghế nhà trường tôi càng thấu hiểu vai trò của cách xác định mục đích học tập đúng đắn. Chỉ khi có được điều này ta mới có thể xác định phương pháp và cách thức học tốt nhất để mang lại hiệu quả học tập cao. Những bạn chưa xác định được mục đích học tập thì thường chán nản, bỏ bê việc học điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới tương lai của họ sau này.

Tục ngữ Nga có câu: “Đừng xấu hổ khi không biết, chỉ xấu hổ khi không học”. Con người được đi học sẽ mở mang thêm hiểu biết làm giàu thêm tri thức nhân loại. Nên để cho việc học có hiệu quả cao thì mỗi người cần xác định cho mình một mục đích học tập đúng đắn có thể như UNESCO đã đề xướng: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.

Trong thời đại khoa học tiên tiến như hiện nay, giáo dục đóng vai trò vô cùng quan trọng. Học tập là vấn đề được toàn xã hội quan tâm. Vậy học hỏi để làm gì? Trả lời cho câu hỏi này UNESCO đã đề xướng mục đích học tập: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.

Mục đích học tập mà UNESCO đề ra không chỉ phù hợp với thời đại mà luôn là mục đích rất nhân văn. Mục đích học tập phải đáp ứng hai yêu cầu: tiếp thu kiến thức và yêu cầu thực hành, vận dụng kiến thức, từng bước hoàn thiện nhân cách. Trước hết: “học đế biết”. Bài học đầu tiên của mỗi học sinh là học chữ cái, con số rồi cách viết, cách đọc. Chính từ nền tảng cơ bản nhất ấy đã dần hình thành nên một hệ thống kiến thức toàn diện ở mức phổ thông. Học ở đây quá trình tiếp nhận kiến thức do người khác truyền lại và tự mình làm giàu vốn kiến thức cho mình. Qua việc học, chúng ta biết được những quy luật vận động của tự nhiên, những quy tắc chuẩn mực của xã hội, cách sống và hiểu hơn về giá trị cuộc sống. Thu nhận kiến thức có thể nói là mục đích học tập cơ bản nhất. Học tập trau dồi trí thức cho con người và làm cho trí tuệ con người sáng rạng ra.

Tuy nhiên, ông cha ta quan niệm: “Trăm hay không bằng tay quen”. Nếu như chỉ chăm học lí thuyết mà không chịu thực hành thì khi làm việc tránh khỏi những khó khăn, thậm chí là thất bại. Một ví dụ dễ thấy rằng cuộc sống của chúng ta, không ít người hiểu rộng biết nhiều nhưng khả năng thực hành lại rất kém. Ngược lại, tại sao những người nông dân “chân lấm tay bùn” suốt ngày “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” không được học hành đào tạo qua trường lớp nào mà tay nghề lại tài giỏi, xuất sắc như vậy? Đó là khả năng quan sát, đúc rút kinh nghiệm trong lao động của họ. Những người hay nói mà không hay làm là những người vô dụng. Đó là những con người biết trang trí bản thân chứ không biết rèn luyện bản thân.

Như vậy “học” thôi chưa đủ mà còn phải “đi đôi với hành” nữa. Tất nhiên chúng ta không nên nghiêng phiến diện một phía: “học” quan trọng hơn “hành” quan trọng hơn mà cần biết điều hòa kết hợp giữa hai yếu tố đó. Trong xã hội ngày nay, tri thức là tiền đề quan trọng. Để hoàn thành công việc có kĩ thuật cao cần phải nắm vững lí thuyết để vận dụng cho phù hợp. Công nghệ hiện đại khác nhiều với việc cày cấy, luân phiên mùa vụ của nông dân trên đồng ruộng. Lí thuyết gắn với thực hành sẽ tạo ra năng suất công việc cao hơn. Qua đây, ta thấy được tác động hai chiều giữa “học” và “hành”, “biết” và “làm”, chúng bổ sung, tương tác với nhau, là hai mặt của quá trình.

Bên cạnh việc đề cao giữa thu nhận kiến thức và thực hành, UNESCO đã chỉ ra:” học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Đây chính là mục đích học tập rất nhân văn. Học tập giúp ta hiểu hơn về thế giới xung quanh làm cho những trạng thái tâm hồn ta trở nên linh hoạt hơn, đa dạng phong phú hơn. Ta đã biết mỉm cười trước niềm vui của người khác, biết đau trước những nỗi đau của con người, biết giúp đỡ, chia sẻ, cảm thông và tìm được chính mình. Tri thức tự nó đã là sức mạnh giúp cho con người rộng lượng hơn, vị tha hơn và tự tin hơn trong cuộc sống.

Ngày nay, cuộc sống hiện đại đã tác động đến suy nghĩ con người. Một bộ phận học sinh, sinh viên thời nay đã không xác định đúng đắn mục đích học tập của mình. Họ miệt mài trong học tập như cái máy, coi việc học như nhiệm vụ, trách nhiệm không thể chối bỏ, đối với cha mẹ, thầy cô. Họ học cho bằng cấp, cho sự nghiệp công danh mà họ trở nên thực dụng trong việc học và quên đi lợi ích của việc học, thiết nghĩ: nếu như cả xã hội này coi học tập chi là nghĩa vụ bắt buộc và chỉ dừng lại ở mức độ biết thì mỗi cá nhân sẽ không phát huy được tài năng, cá tính sáng tạo của bản thân và vô tình kìm hãm sự phát triển xã hội. Vì vậy việc xác định mục đích học tập là rất quan trọng.

Mục đích học tập mà UNESCO đề xướng rất đúng đắn, nhân văn. Qua đó ta định hướng học tập dễ dàng hơn, việc học trở nên hiệu quả và hữu ích hơn. Tri thức như một cái thang dài vô tận, bước qua một bậc thang ta có thêm hành trang để tự tin bước lên bậc kế tiếp. Học vấn làm đẹp con người!

Từ xưa đến nay con người không ngừng học hỏi tiếp thu tri thức của nhân loại. vậy nên chúng ta đã biết và làm được những điều to lớn làm thay đổi cả thế giới

Học để biết: học là một công việc mà mỗi chúng ta phải làm hằng ngày và có thể là cả cuộc đời. học là một quá trình tìm hiểu, thu nhập, tích luỹ kiến thức cho bản thân mình từ thầy cô giáo bạn bè trên tư liệu sách vở và học ở ngoài cuộc sống. kiến thức nhân loại vô cùng phong phú khoa học kĩ thuật không ngừng phát triển có nhiều vấn đề nảy sinh trong cuộc sống cần được chúng ta giải quyết và tiếp thu. Tuy nhiên những điều ta biết chỉ là một giọt nước nhỏ trong khi đó điều ta chưa biết lại là biển cả rộng lớn bao la. Vì vậy còn có nhiều miền tri thức cần được chúng ta khám phá học hỏi. thế nên việc học trước hết là hướng đến mục đích học để biết nhiều miền kiến thức ấy để thế giới xung quanh mở ra một cách sáng tỏ trước mắt bạn lật mở mọi vấn đề mọi khía cạnh của cuộc sống muôn màu. có vậy chúng ta mới có thể không lạc hậu với thời đại và yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Học để làm: “học phải đi đôi với hành” lời dạy thật có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc học của chúng ta ngày nay.tiếp thu kiến thức hôm nay mà không quên những điều đã học ngày hôm qua thì đó mới gọi là việc học đúng cách.muốn vậy thì tất cả chúng ta phải học tập kiến thức lí thuyết sau đó vận dụng làm nó ngoài thực tế để thêm hiểu phần kiến thức ấy và ghi nhớ sâu hơn. ở đây theo UNESCO muốn nhắn bảo chúng ta phải kết hợp song song việc học và làm với nhau có như vậy việc học mới thực sự có ích. Học và làm việc dựa trên những kiến thức đã học vừa là mục đích vừa còn là phương pháp học tập. một khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu kiến thức mà không vận dụng vào thực tiễn thì việc học thật khô khốc không linh động. trong khi vừa học ta lại áp dụng giải quyết những công việc của cuộc sống thì đó là cơ hội để giúp đỡ bản thân gia đình và xã hội đó còn là dịp để bạn phát triển tư duy sáng tạo của mình.

Học để chung sống: “ngọc không mài không thành đồ vậy người không học không biết rõ đạo” làm người ở đời phải có có học, cần am tường hiểu biết mọi vấn đề xã hội, đó là điều cần thiết cho mỗi chúng ta.nhưng việc học còn mang lại cho con người ta sự hiểu biết về đạo lí làm người đạo lí đối nhân xử thế cách ứng xử với mọi người trong cuộc sống hằng ngày.trong quá trình học tập chúng ta sẽ có nhiều bài học về đạo đức nhiều câu chuyện hay về lòng nhân hậu … từ đó hình thành ý thức rèn luyện nên nhân cách con người ý thức cái hay cái đẹp làm việc tốt giúp đỡ mọi người xung quanh có những đức tính tốt và cần thiết trong cuộc sống của mỗi người: siêng năng chăm chỉ hiếu thảo nhân hậu …tất cả đã làm hoàn thiện bản thân bạn.hơn thế nưa là con người có văn hoá có đạo đức biết cách ứng xử đúng đắn với mọi người bạn sẽ thực sự hoà nhập và thích ứng nhanh với môi trường khác nhau của xã hội. đó là chúng ta đã học được cách chung sống. thế giới này chỉ tồn tại nhưng con người biết chung sống hòa thuận gần gũi gắn bó với nhau để tạo thành một cộng đồng một xã hội bền vững từ đó biết giữ gìn nó và giữ gìn cải tạo thiên nhiên đang ngày càng xấu đi do hiện tượng nóng lên toàn cầu. khi con người biết chung sống thì người người nắm tay nhau trong tình thân ái đất nước hoà bình thịnh trị . giữa đất nước trên thế giới sẽ không có mâu thuẫn, chiến tranh tất cả đều hướng tới sự phát triển của nhân loại làm chủ thế giới làm chủ vũ trụ và những miền tri thức mới.có vậy mới có thể hướng tới một xã hội tốt đẹp một thế giới phát triển trong hoà bình.

Một người vừa có tri thức vừa có trình độ văn hoá hay giúp đỡ người khác thành công trong công việc và cuộc sống thì sẽ được mọi người kính nể cảm phục. mọi người khác sẽ lấy đó làm tấm gương học hỏi theo và bạn luôn được tôn trọng và nhận những tình cảm yêu mến.mình có tài có đức ai lại không trọng dụng. đó là học để tự khẳng định mình.mỗi người đều có một tính cách riêng và luôn muốn khẳng định mình được xã hội công nhận. nếu không ngừng nỗ lực học tập rèn luyện cả chí tài đức trở thành người có ích cho xã hội thì bạn sẽ có một “thương hiệu” riêng cho bản thân mình

Mục đích học tập của unesco đề xướng thật đúng đắn và có ý nghĩa to lớn trong việc học tập ngày nay của mỗi chúng ta trước những thay đổi từng ngày từng giờ của thế giới. Hiểu rõ và thực hiện theo đúng như thế tương lai tươi sáng đang chờ đón bạn hãy biết nắm lấy cơ hội !

Con người luôn luôn có nhu cầu học hỏi, mở mang tầm hiểu biết. Chính nhờ việc tích lũy và tìm tòi tri thức mà con người có sự phát triển vượt bậc như ngày nay. Trong xã hội, những con người có hiểu biết rộng luôn được trọng vọng, những người cầu tiến, ham học hỏi luôn được mọi người quý trọng, giúp đỡ. Tuy vậy, không phải ai cũng có thể hiểu hết được mục đích cũng như tầm quan trọng của việc học. Chính vì vậy mà UNESCO – Tổ chức Giáo dục – Khoa học – Văn hóa của Liên hiệp quốc đã đưa ra đề xướng: “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” như một định hướng cho việc học tập của mọi người.

“Học” là quá trình tiếp thu và tích lũy kiến thức. Chính từ quá trình này, chúng ta mới biết được những điều cần thiết làm hành trang trong đời. Có học, chúng ta mới có đủ kiến thức để giải quyết những khó khăn và đạt được những thành công trong công việc. Có tìm tòi về thế giới, chúng ta mới biết về những nền văn hóa mới, mới biết được cách tôn trọng sự khác biệt giữa các quốc gia, từ đó, chúng ta mới có thể chung sống trong hòa bình, hòa hợp. Và có học, chúng ta mới có thể tạo được chỗ đứng riêng của mình, khẳng định được bản thân trong xã hội. Đó chính là những tác động to lớn của việc học mà UNESCO muốn gửi gắm trong câu “học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”. Chẳng phải, đây là những điều chúng ta luôn mong muốn, luôn đặt làm mục tiêu hàng đầu để phấn đấu, nỗ lực hay sao? Thông qua lời đề xướng, UNESCO đã mang đến cho chúng ta một thông điệp: việc học sẽ mang lại những thay đổi to lớn cho cuộc đời mỗi con người và có thể là cả thế giới.

Kiến thức là một kho tàng bao la vô tận. Tất nhiên là không một ai có thể nắm giữ hết kho tàng ấy, bởi vì nó quá to lớn và luôn luôn mở rộng không ngừng. Tuy vậy, con người chúng ta luôn có khao khát được chinh phục kho tàng này, dù việc đó chẳng dễ dàng gì. Và chỉ có việc học mới có thể giúp chúng ta thực hiện ước mơ đó. Chúng ta có thể học từ nhiều nguồn, bằng nhiều cách khác nhau. Không có một công thức nào, cũng không có giới hạn nào về thời gian và không gian cho việc học cả. Chúng ta có thể học từ thầy cô, bạn bè, mọi người xung quanh; học từ những kinh nghiệm trong cuộc sống,… rồi lại mang những kiến thức đó áp dụng vào cuộc sống, “làm giàu” cho bản thân ta cả về vật chất lẫn tinh thần và thậm chí giúp đỡ những người khác. Một đất nước có nhiều công dân có trình độ, có tri thức sẽ phát triển rất nhanh và nhanh chóng trở thành một nước phát triển, giàu có, thịnh vượng.

Advertisement

Dân tộc ta có truyền thống hiếu học từ ngàn đời nay. Xưa kia, có không ít những vị Trạng nguyên nhà nghèo nhưng vẫn quyết chí học hành, dùi mài kinh sử, gắng đem công sức, hiểu biết của bản thân ra xây dựng đất nước. Nhiều người trong số họ đã giúp đất nước ta giữ vững độc lập, chủ quyền. Họ đã khẳng định được mình và được lịch sử vinh danh. Ngày nay, hàng ngàn học sinh trên cả nước dù gặp khó khăn về vật chất nhưng vẫn cố gắng đi học vì họ biết rằng học tập là con đường duy nhất có thể thay đổi cuộc sống của họ, giúp họ chứng tỏ được mình trong xã hội. Thậm chí, cả những người đã có địa vị, có được nhiều thành công trong công việc vẫn phải học. Họ không nhất thiết phải đi học, song họ đã tự ý thức được tầm quan trọng của việc học đối với cuộc sống, với công việc, với sự nghiệp của mình. Có lần, một tờ báo đăng một bài viết về lớp học tiếng Việt ở Đức, về việc học tiếng Việt, văn hóa Việt của những người Đức chuẩn bị sang Việt Nam là việc. Không ai yêu cầu họ làm như vậy, nhưng họ biết đó là những điều cần thiết cho cuộc sống của họ ở một đất nước mới với nền văn hóa khác biệt rất nhiều so với văn hóa Đức.

Học hành có ý nghĩa to lớn như vậy, song không phải ai cũng nắm bắt được mục đích của việc học. Có những bạn học sinh chây lười, chán nản, bỏ bê học hành; lại có những bạn học hành qua loa, không nghiêm túc với hy vọng vượt qua được những kỳ kiểm tra mà không chú ý đến việc học thực chất. Như vậy, làm sao các bạn có thể nắm bắt được những kiến thức cần thiết cho mai sau? Liệu rồi đây, các bạn sẽ đương đầu với những thử thách trong cuộc sống như thế nào nếu không có một nền tảng tri thức vững chắc? Lại còn những bạn học hành rất chăm chỉ, luôn luôn dành thời gian cho việc học mà quên mất thời gian cho thế giới bên ngoài. Có lẽ các bạn quên rằng thế giới ấy luôn ẩn chứa những bài học bất ngờ mà sách vở không bao giờ có thể dạy cho các bạn được. Và cũng chính thế giới ấy mới là nơi các bạn thực hành và trải nghiệm những kiến thức các bạn học được.

Học hành rất quan trọng, song cách học cũng như cách sắp xếp, cân bằng thời gian giữa học và thư giãn cũng rất quan trọng. Nếu không biết phương pháp học phù hợp thì dù học rất nhiều song ta không tiếp thu được bao nhiêu, còn nếu không cân bằng được thời gian ta sẽ bị quá tải, từ đó dẫn đến chán nản rồi cuối cùng là lười học. Một trò chơi nhỏ, một bản nhạc hay một bộ phim yêu thích sẽ giúp ta xua tan căng thẳng, chuẩn bị cho việc tiếp thu những kiến thức mới.

“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình” là một điều đúng đắn, và lời đề xướng này càng có ý nghĩa hơn nữa khi con người càng ngày càng phát triển hơn, tiến bộ hơn và chân trời tri thức ngày một rộng hơn. Trong tương lai, khi toàn thế giới đã chuyển sang nền kinh tế tri thức, kiến thức sẽ là nhân tố chính để có được chỗ đứng trong xã hội. Nếu không muốn bị bỏ lại phía sau nhân loại thì ta chỉ có một con đường là học mà thôi. Học để có thể tiến ra thế giới, “sánh vai cùng các cường quốc năm châu” với một thái độ kiêu hãnh chứ không phải tự ti, rụt rè.

Học tập là một nhu cầu, một hoạt động không thể thiếu được của con người từ xưa đến nay. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, quan niệm về việc học của con người cũng có nhiều thay đổi để tiếp cận chân lí, tiến dần đến bản chất của việc học. Trong thời đại ngày nay, UNESCO đã đề xướng mục đích của học tập như sau: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.

Mục đích của học tập đã được UNESCO tống kết trong bốn nội dung rõ ràng, đầy đủ, đúng đắn và khoa học: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình. Biết, làm, chung sống, tự khẳng định mình nói lên như bốn mục đích mà việc học ngày nay phải hướng tới, là bốn trụ cột vững chắc cho việc học trong thời đại hiện nay. Biết bao giờ cũng là mục đích đầu tiên của việc học, trước đây đã thế, bây giờ càng phải thế, vì tri thức của nhân loại càng ngày càng phong phú mà hiểu biết của con người thì có hạn. Đây là khâu thu nhận kiến thức của con người, là trụ cột đầu tiên làm cơ sở cho ba trụ cột tiếp theo của việc học. Mạnh Tử nói: “Không lên núi cao sao biết cái lo nghiêng ngã, không xuống vực sâu sao biết cái lo đắm đuối, không ra bể lớn sao biết cái gì lo sóng gió”. Học để biết chính là như vậy. Nhưng không phải biết chỉ để biết, để thành một kiểu “nhà thông thái” đọc thiên kinh vạn quyển theo quan niệm học cũ trước đây, mà trong thời đại ngày nay, tiêu chí quan trọng là học để làm, để thực hành, vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Biết và làm là hai mặt không thể thiếu trong việc học của con người ngày nay, nó gắn bó hữu cơ và tương hỗ với nhau: biết để làm, và làm để nâng cái biết lên một tầm cao hơn, vững chắc hơn, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Học để hành, hành để học”. Nhấn mạnh đến yêu cầu làm bằng việc tách nó ra, để nó đứng ở vị trí thứ hai ngay sau yêu cầu biết là đúng, là phù hợp với việc học của con người ngày nay: con người hành động, con người sáng tạo. Yêu cầu thứ ba là học để chung sống – một mục đích rất mới mẻ mang dấu ấn thời đại sâu sắc. Con người ngày nay không còn sống riêng biệt theo kiểu “tự cung tự cấp”, “ta về ta tắm ao ta” mà đã hòa nhập trong xu thế toàn cầu hóa để hiểu biết nhau đến với nhau, học tập và giúp đỡ lẫn nhau… Chung sống trở thành một nhu cầu tự nhiên, một yêu cầu phải có, một kĩ năng, phẩm chất của con người trong thời hiện nay, nó phải được đưa vào như một mục đích hẳn hoi của việc học tập, có vai trò và vị trí như các mục đích khác. Khái niệm chung sống ở đây cần được hiểu theo nghĩa “tinh thần” của nó là cách sống, xu thế sống của thời đại. Trong mục đích học để chung sống thì kĩ năng chung sống của con người trong thế kl XXI là rất quan trọng. Cuối cùng là học để tự khẳng định mình. Đây là yêu cầu của việc hoàn thiện nhân cách trong học tập, cũng là kết quả và thước đo trong việc học của mỗi người.

Tự khẳng định mình là cái đích phải đạt được của con người ngày nay trong học tập: đó là lúc con người đã từng bước hoàn thiện nhân cách của mình, có đủ năng lực và phẩm chất để chung sống với mọi người và góp phần xây dựng cho dân tộc cũng như cộng đồng nhân loại. Nếu học tập mà không tự khẳng định được mình thì coi như việc học không đạt kết quả.

Cập nhật thông tin chi tiết về Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3: Thuyết Minh Về Một Loài Vật Nuôi Dàn Ý &Amp; 48 Mẫu Bài Viết Số 1 Lớp 9 Đề 3 trên website Fply.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!